Hiển thị các bài đăng có nhãn Hành chính công. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hành chính công. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

Cưỡng chế thế này sao không mất lòng tin?

Vào dịp này năm ngoái dư luận cả nước đổ dồn vào vụ cưỡng chế một công trình xây dựng trái phép tại phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Các nguồn tin chính thức lúc đó cho biết, đó là khu đất có ký hiệu  NO4-X với diện tích hơn 1.700m2 do Công ty CP Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng (INDECO) làm chủ đầu tư. Cùng thời gian này INDECO còn được UBND Thành phố Hà Nội cấp phép đối với hàng chục dự án xây nhà ở để bán tại một số khu đất kẹt khác thuộc Phường Dịch Vọng và việc này cũng đang bị nhân dân phản đối rất dữ dội. Các cơ quan chức năng cũng đã kết luận đây là trường hợp tham nhũng có tổ chức, được "bảo kê" từ dưới lên trên, và nhờ đó đã kéo dài trong nhiều năm bất chấp sự cảnh báo, phản đối và khiếu kiện từ công chúng. 

Khi đó dù biết rằng cuộc cưỡng chế là miễn cưỡng và chỉ nhằm xoa dịu sự bức xúc của người dân... nhưng dư luận công chúng vẫn hả hê khi thấy công trình được "xử lý".   

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Muốn biết công luận hãy ra công viên


Nếu quán nước chè cùng các xới bia hơi một thời được coi là chốn của "tin vỉa hè" thượng vàng hạ cám..., thì giờ đây công viên đang thay thế vị trí đó. Những nơi khác thì chưa thật sự rõ, nhưng đối với Hà Nội thì đúng vậy. Nếu không tin, bạn hãy thử dạo qua một số công viên của Thủ đô sẽ thấy.

Không biết có phải vì lo ngại sức khỏe bị ảnh hưởng bởi bia rượu hoặc lo ngại thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, người Hà Nội gần đây có xu hướng xa lánh quán bia và cố hạn chế ăn uống bên ngoài (?). Nhiều người gặp nhau ở quán cafe chưa hẳn để uống cafe mà để thư giãn hoặc vì công chuyện... Cùng với xu hướng này, số người đến các công viên ngày càng đông so với bất cứ thời kỳ nào trước đây và thành phần chủ yếu là người lớn, thời gian đông nhất là các buổi sáng và chiều tất cả các ngày (chứ không phải chỉ có thanh niên và chủ yếu vào buổi tối như trước đây). Họ đến đây để đi bộ, tập thể dục dững sinh hoặc đơn giản để hít thở không khí trong lành (chứ không phải chỉ để tỏ tình yêu đương như trước). Tùy lứa tuổi và tình trạng sức khỏe, mỗi người đến công viên với mục đích khác nhau, nhưng chung nhất là để tách khỏi căn phòng ở của họ. Nhiều người có thú vui trao đổi về các chủ đề quan tâm như sức khỏe, ăn mặc, cây cảnh...Nhưng có lẽ nội dung phổ biến nhất ở người lớn, đặc biệt những người đã nghỉ hưu, là thời sự chính trị-xã hội trong nước và quốc tế, kể cả tham nhũng, chủ quyền biển đảo...

Nếu ở nơi quán xá ồn ào náo nhiệt xô bồ, những gì phát ra từ những cái đầu nóng thường thiếu độ chuẩn xác, thì ở công viên với môi trường trong lành, thanh tịnh, những gì người ta nói ra thường có suy nghĩ và chính xác hơn. Họ có thể nói lại những gì vừa nghe được qua báo đài, tivi và cả các nguồn không chính thống qua internet mà trong đó một số trang mạng tư nhân như Anh Basam, Quê Choa,....dường như đã thế chỗ các tờ báo lớn như Nhân dân, Quân đội nhân dân. Không chỉ nói lại, họ cũng bình luận đa chiều theo nhận thức của mỗi người, có người dè dặt, có người bỗ bã nhưng nói chung đều ở mức độ vừa phải, có lúc xẩy ra tranh luận nhưng không gay gắt, vì hầu hết người tham gia không có xung đột lợi ích công tác hoặc động cơ chính trị. Những người kiệm lời có thể chỉ nghe mà không nhất thiết phải nói. Với những ai vì điều kiện nào đó ít nghe đọc thì đây là nơi để thu thập chút ít thông tin thời sự cũng không đến nỗi vô ích. Đôi khi cũng có người "thạo tin" có chủ ý đến đây để phổ biến những gì họ thu thập được đồng thời trao đổi cùng người khác như một thú vui. Đôi khi cũng có người lo ngại không dám tham gia trao đổi thảo luận vì sợ bị ai đó bí mật theo dõi, xử lý..., nhưng sau một thời gian thấy không ai việc gì thì cũng tham gia. Từ chỗ ít người đến chỗ nhiều người, từ chỗ nói ít đến nói nhiều, từ chỗ nói dè dặt đến chỗ nói mạnh, nói toạc ra...Bắt đầu có thể chỉ là một câu chào hỏi tình cờ, dần dà thành một điểm hẹn, giờ hẹn không báo trước mà ai cũng tới. Có nhóm toàn đàn ông, có nhóm toàn phụ nữ, đôi khi có cả nam nữ. Nội dung không phải lúc nào cũng chính trị thời sự mà thường bắt đầu bằng những thông tin về đời sống giá cả thị trường..., nhưng kết thúc thường vẫn quy về nguyên nhân chính trị xã hội với sự ca thán về thực trạng yếu kém của các cơ quan công quyền. Mà không sao được (?) khi đó toàn là sự thật!

Người ta bảo nhau: Giá như các vị lãnh đạo cũng dạo công viên như chúng mình chắc sẽ biết thêm về công luận và đỡ quan liêu..., đôi khi sờ gáy ngoái đầu soi lại bản thân thì cũng tốt!

Trần Kinh Nghị

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Cho bọ xin con cá ăn nốt bát cơm

Thiết kế phối cảnh Nhà Quốc Hội
Mấy hôm rồi có dịp đi qua Ba Đình được mục sở thị tòa Nhà Quốc Hội lâu nay nghe giới xây dựng và truyền thông hết lời ca ngợi giờ đang ở giai đoạn hoàn thiện. Quả không sai nếu xét về vị trí đắc địa của nó...Nhưng hình dáng bề ngoài thì không ngờ lại quá bình thường, chẳng giống mấy so với bản vẽ thiết kế, đặc biệt tòa tháp được coi là "điểm nhấn" của công trình thì lùn tịt chẳng thấy đâu.
Bất giác mình cảm thấy có cái gì vừa tiếc vừa buồn... Lẽ nào bất chấp mọi ý kiến phản bác, đặc biệt của Tướng Giáp, người ta đã quyết tâm đập bỏ Hội trường Ba Đình để đổi lấy khối cấu trúc đồ sộ này?  Hay vì mình là "người trần mắt thịt" nên không biết thưởng thức tính thẩm mĩ cao siêu của nó ?....

Đang phân vân ...thì hôm nay đọc tin thấy nói Bộ Xây dựng vừa có Tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo về việc rà soát, điều chỉnh tổng mức đầu tư Dự án xây dựng công trình Nhà Quốc hội . Xem chi tiết tại đây  http://dddn.com.vn/bat-dong-san/de-nghi-bo-sung-hon-2000-ty-cho-du-an-nha-quoc-hoi-2014011510293227.htm , 

Theo công văn này, người ta viện ra đủ thứ lý do nghe cũng rất lâm ly chi tiết...để xin thêm 2.040 tỷ đồng bổ sung khinh phí đã được chính thức phê duyệt là 4,797,043 tỷ đồng nhằm hoàn thiện công trình cho thật mĩ mãn! Như vậy. tuy gọi là "kinh phí bổ sung" nhưng bằng gần 1/2 tổng kinh phí đã duyệt nâng tổng giá giá trị công trình lên gần 7 tỷ đồng là quá nhiều và không bình thường.
   
Vẫn biết chiêu trò xin thêm quả ớt, qảu cà rồi đến con cá.., để "ăn nốt bát cơm" kiểu này  là chuyện luôn xảy ra với những dự án nhỏ lẻ cục bộ hoặc các dự án khó nghiệm thu như cầu, đường, khai khoáng... , không ngờ bây giờ lại diễn ra với một dự án cấp cao nhất trước mặt bá quan văn võ giữa Quảng trường Ba Đình thế này thì hết chỗ nói !   

Trần Kinh Nghị
Ngày 19/01/2014  

Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

Lãnh đạo VN: Vì sao nhiều nhưng không manh, mới nhưng vẫn cũ?

Hai tân Phỏ Thủ tướng Vũ Đức Đam (trái) và Phạm Bình Minh
Ngày 13/11, Quốc hội vừa "nhất trí cao" thông qua việc bổ nhiệm thêm 2 Phó Thủ tướng mới nâng tổng số Phó Thủ tướng của Việt Nam lên con số 5 tròn trĩnh và có lẽ là nhiều nhất thế giới! Cá nhân tôi vốn ngưỡng mộ hai nhân vật này và tin rằng họ sẽ còn tiến xa hơn thế. Điều tôi muốn nói ở đây là cái cách thức lựa chọn và bổ nhiệm lãnh đạo ở Việt Nam và những hệ lụy của nó.

Xung quanh sự kiện này có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng ý kiến chung nhất cho rằng cách bổ nhiệm lãnh đạo như vậy "chỉ có ở Việt Nam" - đất nước mà  lúc nào cũng ở "thời kỳ quá độ" mãi mê tìm tòi khám phá những điều mà nhân loại đã đi qua rồi! Đó cũng là lý do tại sao Đảng, Chính phủ và Quốc hội liên tục kêu gọi "cải cách hành chính"và "tinh giản biên chế"..., nhưng đội ngũ công chức không ngừng tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế; tại các lễ hội, phần giới thiệu danh sách đại biểu thường dài đến sốt ruột! 

 Sở dĩ việc bổ nhiệm cùng lúc 2 phó Thủ tướng mới được dư luận hoan nghênh trước hết là vì người Việt Nam đã quá thất vọng với giới lãnh đạo già nua bảo thủ và giờ đây rất sẵn lòng chào đón những gương mặt trẽ hơn. Tuy nhiên, đó là thứ tình cảm nhất thời khiến người ta quên đi những điều kiện khác mà Việt Nam đang rất cần, đó là tầm nhìn và bản lĩnh độc lập của người lãnh dạo. Thực tế thế giới cho thấy không phải độ tuổi trẻ hay già mà tầm nhìn và bản lĩnh độc lập mới là yếu tố cần thiết nhất của một nhà lãnh đạo. Ở nhiều nước, kể cả các nước phát triển, độ tuổi lãnh đạo có thể rất trẻ nhưng cũng có thể khá già dặn (như Lý Quang Diệu của Singapore, Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc v.v...) vì ở đó người ta căn cứ vào bản lĩnh và tầm nhìn để lựa chọn lãnh đạo. Tất nhiên tầm nhìn cần được thể hiện công khai, tốt hơn hết là bằng cương lĩnh và chương trình hành động cụ thể, đủ sức thuyết phục trước công chúng. Đó cũng là thước đo để đánh giá công tác trong suốt nhiệm kỳ của nhà lãnh đạo. Người lãnh đạo ngoài việc tuân thủ nguyên tắc công tác và nghĩa vụ đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích cá nhân, điều quan trọng là phải tỏ rõ bản lĩnh và lập trường riêng của mình nhằm đảm bảo thục hiện cương lĩnh hành động đã cam kết. Trong trường hợp cảm thấy không đủ sức thực hiện hoặc bị người khác ép buộc từ bỏ chính kiến của mình thì bản thân họ sẽ tự nguyện từ chức mà không  cần đợi hết nhiệm kỳ. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Đức, Pháp v.v...việc từ chức hoặc bị cách chức là hoàn toàn bình thường nhằm đảm bảo hoạt động của guồng máy  và vì lợi ích của quốc gia. Đó là một đặc điểm của phong cách lãnh đạo trong thế giới hiện đại.  

Tiếc rằng điều này chưa có và có lẽ còn lâu mới có trong nền chính trường Việt Nam-nơi sản sinh ra khái niệm "lãnh đạo tập thể" gây nhiều tranh cãi. Tâm lý "kéo áo nhau" cùng lên, cùng xuống... cũng là một đặc thù của nền chính trị Việt Nam. Còn nhớ sự kiện giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ 8, hàng loạt lãnh đạo chủ chốt đã cùng nhau nghĩ hưu tạo ra một sự "hụt hẩng" không cần thiết, trong đó sự ra đi của ông Võ Văn Kiệt được cho là một sự thiệt thòi" cho đất nước. Như một biện pháp vớt vát người ta đã cho ra đời quy chế "cố vấn" khiến cho cơ chế lãnh đạo càng thêm rườm rà. Đó chỉ là một trong những biểu hiện của cung cách lãnh đạo lạc hậu tại đất nước này. Nghe nói trong quá trình họp Quốc hội vừa qua đã có ý kiến đề nghị 2 vị Phó Thủ tướng được đề cử trình bày chương trình hành động..., nhưng không hiểu vì lý do nào, đến nay vẫn chưa thấy gì ngoài những lời phát biểu chung chung.  Đây chính là một  lổ hổng trong quy trình lựa chọn và đề bạt cán bộ ở Việt Nam như nó vốn dĩ vẫn thế. Vẫn biết, nếu xét từng cá nhận lãnh đạo Việt Nam không thiếu người tài và bản lĩnh, nhưng tiếc thay họ không được tạo điều kiện để thể hiện một cách công khai trước công chúng, do đó sau khi nhận nhiệm mới vụ họ thường dễ trở nên tự mãn, tự phụ và xa dần với quần chúng nhân dân, thậm chí trở nên quan cách, độc đoán. Không có cương lĩnh hành động từ trước, họ thường lúng túng và dẽ bị ảnh hưởng, thậm chí bị thao túng bởi giới lãnh đạo đàng anh. Là thiểu số mới lên họ dẽ bị rơi vào thế "thiểu số phải phục tùng đa số". Rốt cuộc họ chỉ còn cách lựa chọn, một là chịu "bị đồng hóa" bởi ê kíp cũ, hai là bị loại bỏ giữa chừng, ba là "bị liệt vị" không thể phát huy được gì trong một guồng máy tập thể đã an bài.  Nhiều người hẳn còn nhớ trường hợp cố Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã bị "loại bỏ" như thế nào trước sức ép của các thế lực "thù trong giặc ngoài" vào những 1980. Ngay cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp nổi tiếng về phong cách và bản lĩnh cũng đã từng là nạn nhân trong nhiều năm liền. Rất nhiều trường hợp người tài đức đã "biến mất" trong quá trình vận hành nền chính trị của đất nước này. Thực tế cho thấy không chỉ bản thân họ bị "ngã ngựa giữa dòng" và sự nghiệp của đất nước cũng bị ảnh hưởng. Sự thật phủ phàng và trớ trêu đến nỗi nhiều người đã rút ra bài học rằng muốn làm nên sự nghiệp lớn trước hết hãy biết bảo vệ mình...bằng cách dĩ hòa vi quý (!). Nhưng thực ra đó chỉ là cách ngụy biện thuận tiện nhất đối với những kẻ cơ hội chờ thời. Liệu đất nước này có thể cải cách và phát triển với một đội ngủ quan chức với quan niệm đầy thực dụng như vậy không?

Thiết nghĩ, điều Việt Nam đang thiếu hiện nay không chỉ là lãnh đạo trẻ mà là lãnh đạo có bản lĩnh và tầm nhìn với phong cách hiện đại. Họ phải là người dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Chí có những lãnh đạo như thế mới có thể công phá vào cái lô cốt được xây bằng thứ vật liệu của sự dối trá và mị dân cùng những khái niệm mơ hồ như "lãnh đạo tập thể", "nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên", "đấu tranh phê và tự phê" v.v... Khi nào còn thiếu vắng những lãnh đạo như thế thì chưa thể hy vọng đất nước ra khỏi tình trạng trì trệ và bảo thủ đã ăn sâu bám rể trong trong thời gian dài./.               

 

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Tham nhũng: Ai chống ai?

Có thể nói, không một công chức Việt Nam XHCN nào từng được cầm trong tay một tháng lương đúng với nghĩa của nó. Các thế hệ chiến tranh đã đành. Nhưng với các thế hệ sau này mà vẫn thế thì thật phi lý quá (!?). Nhưng đồng thời cũng có một thực tế vô lý hơn thế. Đó là hầu hết công chức Việt Nam đều có mức sống cao hơn so với mặt bằng xã hội, rất nhiều người giàu có đến mức khiến các đồng nghiệp của họ bên Trung Quốc và một vài nước ASEAN phải ghen tị! Vì sao vậy?

Khi đồng lương không đủ sống, tham nhũng trở thành lối sống   
Cái lý mà các nhà lãnh đạo đất nước này vẫn dùng để giải thích vì sao chưa thể cấp đủ lương công chức là "Đất nước ta còn nghèo". Nhưng chẳng lẽ họ không biết rằng  nhiều nước khác nghèo hơn mà vẫn trả lương đầy đủ cho công chức của họ? Ngay bản thân Việt Nam thời phong kiến-thực dân nghèo hơn bây giờ nhiều vẫn trả đủ lương công chức đấy thôi!  Thật khó hiểu  vì sao cái lý do vô lý đó vẫn tồn tại đến bây giờ khi đất nước đã chính thức được xếp hạng trung bình thế giới (?). 

Có thể đó chỉ là một phép tính sai lúc đầu do lối tư duy tiểu nông muốn "rẻ mà tốt"(?) Nhưng kinh nghiệm của hơn 1/2 thế kỉ chẳng lẽ chưa đủ để nhận ra rằng cắt xén tiền lương công chức là biện pháp hửu hiệu nhất để phá hỏng tận gốc rể một hệ thống công quyền, đơn giản là vì đội quân công chức “thiếu đói” sẽ tìm mọi cách để “bù đắp” lại phần lương còn thiếu của họ?

Thật ra, tệ nạn tham nhũng đã có mầm mống từ thời bao cấp khi đồng lương của cán bộ công nhân viên chức (tức là toàn bộ những người làm công ăn lương nhà nước) được trả bằng 2 phần: tiền mặt và hiện vật. Nhưng không  phải ai cũng có nhu cầu sử dụng các đồ vật như nhau nên người ta  đem ra đổi chác, nhượng, bán  vòng vo . Hình thái “chợ đen” đã ra đời từ đó. Tệ nạn ăn cắp thành hoặc nguyên vật liệu từ các cơ sở sản  xuất tuồn ra chợ đen cũng bắt đầu từ đó. Bệnh "làm láo báo, cáo hay" và nhiều thói hư tật xấu cũng bắt đầu từ đó. 

Khi những sai lầm trong chính sách giá-lương-tiền bắt đầu từ cuối những năm 1970 đã dẫn đến tình trạng lạm phát phi mã kéo dài. Đó là một thời kỳ chuyển tiếp đầy kịch tính khi tem phiếu bị cắt bỏ chỉ còn lại đồng lương đang mất hết giá trị thực. Tình huống bắt buộc mọi cán bộ công  nhân viên phải nhao ra đường  kiếm sống. Giáo viên  trốn giờ chính khóa để đi dạy thêm;  y bác sĩ bán thuốc lậu hoặc vòi tiền bệnh nhân; cảnh sát trở thành “anh hùng núp” tìm người phạt vạ; nhân viên công sở cũng không kém cạnh với nhiều chiêu kiếm tiền, kể cả buôn lậu, thông đồng, câu kết, v.v… Nghĩa là  Toàn bộ hệ thống các cơ quan công sở nhà nước từ trung ương xuống địa phương, các đơn vị sản xuất cũng như phi sản xuất, từ dân sự đến các lược lượng vũ trang, đều tập trung lo “cơm áo gạo tiền”. Cái gọi là "ba lợi ích"(cá nhân - tập thể - nhà nước)  đã ra đời từ đó. Trên danh nghĩa đơn vị xí nghiệp, cơ quan với sẵn quyền hạn và cơ sở vật chất trong tay mà  “làm ba lợi ích” thì thôi rồi Lượm ơi! Nói là “ba lợi ich” nhưng người ta chỉ nhằm vào lợi ích cá nhân là chính, lấy lợi ích tập thể làm bình phong che chắn để câu kết, thông đồng cùng nhau "rút ruột" từ lợi ích nhà nước. Nói cách khác, mọi hành vi , tham ô, lãng phí, tham nhũng núp dưới cái tên mĩ miều "tập thể" đều trở nên sạch sẻ, khó phát hiện, phát hiện rồi cũng khó mà xử lý. Khi đem ra kiểm điểm, chúng được gọi bằng cái tên chung là "tiêu cực". Ranh giới giữa tiêu cực và thành tích chỉ khác nhau ở cách diễn gải là "góp phần cải thiện đời sống", "phát huy tinh thần vượt khó khăn" , "lá lành đùm lá rách", bla, bla.... Vậy là êm thấm, hòa cả làng.
      
Trong bổi cảnh cùng quẩn của đất nước, cái gọi là “đổi mới” đã ra đời  như một cứu cánh (chứ nào có "sáng suốt" gì đâu?). Và nó đã giúp tránh được một sự sụp đổ. Nhưng đáng tiếc, không hiểu vì lý do gì, nó vẫn không làm gì để thay đổi chế độ tiền lương không đủ sống vốn là một nguyên nhân sâu xa của tệ nạn tham nhũng tập thể ở đất nước giàu truyền thống đoàn kết nay đã biến thành "câu kết" này (?). Khi nguồn của cải vật chất và vốn nước ngoài đổ vào ngày càng nhiều đã tao ra càng nhiều cơ hội mới cho bon tham nhũng. Đây là thời kỳ mà “chùm khế ngọt” bị nhiều bên thi nhau trèo hái hàng ngày. Bọn họ có thể là cán bộ công nhân viên chức, có thể là dân thường, cũng có thể là bên đối tác nước ngoài v,v… Không chỉ những kẻ có chức quyền, mà ngay cả những người lái xe tải hoặc người gác rừng, thủ kho, đầu bếp, v.v… cũng đều có cơ hội. Dĩ nhiên ai có nhiều lợi thế hơn sẽ gặt hái  được nhiều hơn. Đó là một thời nhộn nhạo tranh tối tranh sáng vô cùng thuận lợi cho các loại tội phạm từ ăn cắp vặt đến tham nhũng có tổ chức. Thời đó thậm chí đã xuất hiện một cách biện hộ nực cười rằng tham nhũng giúp rút ngắn quá trình tích lũy tư bản(!?) 
Quá trình phân hóa giàu nghèo thực sự đã bắt đầu từ đó. Trong khi  đại bộ phận dân chúng và công chức cam chịu và chờ đợi, số còn lại chớp cơ hội và  nhanh chóng giàu lên, thậm chí có vốn để đầu tư vào những hoạt động sinh lời đang được nhà nước khuyến khích. Một số lặng lẽ chuyển sang khu vực tư nhân trong khi số ở lại trở thành “doanh nhân nhà nước”, và họ tạo thành những thế lực mới trong nền “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” mà trong đó việc câu kết, thông đồng giữa họ với nhau trở nên càng thuận tiện. Các dự án đầu tư, đặc biệt các dự án có vốn nước ngoài và lĩnh vực đất đai-bất động sản là những lựa chọn béo bỡ nhất.
Đến nay tệ nạn tham nhũng không chỉ dừng lại ở mức độ ăn cắp vặt hay tham ô tập thể, mà đã trở thành những  thế lực ngầm chi phối đời sống chính trị-kinh tế-xã hội của đất nước bằng các thủ đoạn thông đồng câu kết đan xen vô cùng tinh vi, phức tạp. 

Tham nhũng tập thể muôn năm!
Tệ nạn tham nhũng  ở Việt Nam mang một đặc thù khác với tệ nạn tham nhũng trên thế giới,  đó là “tham nhũng tập thể”. Nó hiện diện  ở mọi nơi từ công sở đến các đơn vị sản xuất và cả các lực lượng vũ trang, ở tất cả các cấp độ từ TW xuống địa phương. Nó vừa là ”nguồn sống” của  tất cả những người làm công ăn lương nhà nước, vừa là hậu cứ của các thế lực tham nhũng xuyên quốc gia. Nó không chỉ được tập thể che chở mà còn được nhà nước "thể chế hóa" bằng các quy định hoặc luật lệ bất thành văn. Cái gọi là phần “mềm” đã từ lâu là một bộ phận cấu thành  tiền lương công chức, và thực chất đó là phần “lậu” đã được hợp thức hóa. Nó quen thuộc đến nỗi không còn ai thấy đó là sai trái. Mới đây một vị phó GĐ trong 3 dự án bị nhà tài trợ Đan Mạch nghi tham nhũng đã thản nhiên biện bạch một cách trơn tuột rằng “Cán bộ khoa học hiện nay không thể sống bằng lương được, vì thế khi có dự án thì họ phải làm thêm thông qua các hợp đồng này. Bản thân tôi cũng nhận hai khoản, một là lương của viện, một là khoản “bù lương” mà phía Đan Mạch đã chấp thuận là 300 đôla/tháng, chứ không phải hai lương như kiểm toán nói” (theo BáoTT ngày 3/6/2012). Nhưng không chỉ có vậy; một khi đã chấp nhận “bù lương” thì bù bao nhiêu, bù như thế nào chỉ là câu chuyện của sợi cao su co giản!  Đó là lý do tại sao cán bộ công chức thích "làm dự án".
Nhưng cũng không chỉ có dự án, mà làm nghề gì ăn nghề đó! Hải quan, thuế vụ, công an hoặc bất cứ ngành nào có nguồn thu cho ngân sách đều  được phép “trích %” từ nguồn thu để bù vào lương; chính quyền phường xã ăn từ đất; dân hành chính bàn giấy cũng có cách ăn từ công văn, giấy tờ , v.v... .  Quan nhỏ ăn nhỏ, quan to ăn to, rào rào như tằm ăn tơ vậy!  Xem cái cách ăn của Vinashin,Vinalines sẽ thấy họ không chỉ ăn mà phá nhiều hơn cả phần ăn! Có lẽ không nước nào trên thế giới lại có quy chế cho phép các cơ quan công quyền được “làm 3 lợi ích”, "làm kinh tế" như Việt Nam. Đó  là những quy chế không bình thường và chúng là nguyên nhân gây ra  tệ nạn tham nhũng tập thể, một loại hình tham nhũng rất khó chống. Qua cung cách của những vụ tham nhũng phát lộ gần đây cho thấy hầu hết thủ phạm đầu sỏ đều đã trưởng thành từ tập thể, được tập thể tán thưởng và đề bạt. Nói cách khác bọn họ đều có một võ bọc của những tập thể quần chúng và tập thể lãnh đạo nào đó; họ không đơn độc.    

Vòng luẩn quẩn lương-lậu
Vẫn biết có nhiều nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Nhưng trong trường hợp Việt Nam không thể không tính đến nguyên nhân  tiền lương không đủ sống kéo dài hơn 1/2 thế kỷ đủ lâu để làm băng hoại cả một bộ máy công quyền khiến  nhà nước phải liên tục tăng thêm biên chế nhưng  không bao giờ có thể hoàn thành nhiệm vụ. Biên chế ngày càng phình to mất cân đối so với quỹ lương lương ắt dấn đến tình trang lương vốn đã thấp ngày càng thấp hơn. Ước tính, đội ngũ công chức (bao gồm cán bộ công nhân viên và quân đội ăn lương nhà nước) hiện nay đã tăng lên quảng 2 triệu người trong tổng số 6 triệu người người ăn lương nhà nước (kể cả bộ đội và người về hưu). Tức là cứ 45 người có một công chức, và cứ 15 người có một người ăn lương nhà nước. Đây là tỷ lệ cao nhất thế giới thì phải (?). Nhưng lương nào có ra lương! Giá trị đồng lương thực tế liên tục giảm. Ví dụ lương tháng tối thiểu năm 1960 tuy chỉ khoản 15 đồng nhưng có thể mua được hơn 01 chỉ  vàng, cộng các khoản phụ cấp, người nhận lương vẫn nuôi sống được gia đình ở mức đạm bạc; trong khi lương tối thiểu năm 2012 là 1.050.000 đồng chỉ mua được 1/4 chỉ vàng, và chỉ  nuôi sống bản thân trong vòng 1-2 tuần lễ. Cách so sánh đơn giản này cũng cho thấy tình trạng tương tự đối với các cấp độ lương cao hơn. Mức độ chênh lệch giữa các bậc lương chính thức không nhiều , ví dụ lương những người lãnh đạo cao nhất quảng 13 triêu đồng, tức gấp 12 lần lương tối thiểu. Nhưng mức chệnh lệch trong thu nhập thực tế thì vô cùng lớn, vì các cấp càng cao càng có nhiều khoản trợ cấp với giá trị gấp hàng trăm lần lương, đặc biệt, chúng được áp dụng một cách không minh bạch, rõ ràng. Thử hỏi cán bộ công chức và toàn bộ khối  những người làm công ăn lương làm cách gì để có thể duy trì cuộc sống của họ nếu không tham nhũng?

Để "bù lương" cho toàn bộ đội ngũ công chức "sống được", quỹ lương thực sự của nhà nước ắt phải gấp nhiều lần quỹ lương công khai . Trên thực tế, đa số công chức Việt Nam thường có thu nhập thực tế cao hơn hàng chục lần lương chính thức. Điều này có nghĩa, theo quy luật tổng giá trị tài sản quốc gia không đổi, một giá trị tài sản nhà nước khổng lồ thường xuyên bị thất thoát. Đó là chưa kể những giá trị vô hình bị mất đi do hậu quả của cả quá trình tham nhũng gây ra như chất lượng công trình kém và nhiều dạng lãng phí, v.v...Nhưng hậu quả năng nề nhất chính là sự chậm tiến của nền kinh tế đất nước và nguy cơ "đe dọa sự tồn vong của chế độ" như đã được tống kết trong NQ TW 4 khóa XI mới đây.  Tóm lại, 3 nhân tố công chức, tiền lương và tham nhũng luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một vòng luẩn quẩn theo hình xoáy trôn ốc, trong đó quy mô và mức độ tham nhũng của thời kỳ sau bao giờ cũng lớn hơn thời kỳ trước. Đó là lý do tại sao quỹ lương không bao giờ đủ để chi trả cho một biên chế ngày càng phình to.Tuyệt đối không phải là do đất nước nghèo mà do tham nhũng làm nghèo đất nước!

Hết phương cứu chữa hay không muốn cứu chữa?
Do đã quá quen chung sống với tệ nan tham nhũng, người dân nói chung và bộ phận  công chức bình thường tỏ ra thờ ơ hoặc bất lực trước vấn nạn tham nhũng. Nhưng đồng thời có một bộ phận công chức, kể cả ở cấp cao, không thật sự thấy cần thay đổi chế độ tiền lương không đủ sống, vì họ muốn tiếp tục lợi dụng các kẻ hở của chế độ hiện hành để kéo dài cơ hội tham nhũng. Họ thậm chí cố tình ngăn chặn tiến trình cải cách. Giả thiết này tỏ ra có lý đối với những quan chức đang nắm giữ những nguồn tài sản công béo bở hoặc những cương vị mà kẻ khác phải tìm đến để cống nạp.Những nhóm người này thường có khả năng tự tung tự tác trong các vụ tham nhũng trị giá tiền nghìn tỷ như PMU 18, Năm Cam, Hành lang Đông Tây, Vinashin,Vinalines và hàng loạt vu việc đang bị nghi vấn khác. Giả thiết trên cũng đúng trước thực tế ngày càng nhiều người mua quan bấn chức. Chưa bao giờ chức vụ lại trở nên “đắt giá” như bây giờ khi người ta sẵn sàng bỏ ra bạc tỷ để mua một chức vụ đôi khi chỉ là cấp chủ tịch phường, xã , thậm chí chỉ là cấp trưởng thôn. Họ làm vậy hoàn toàn không phải vì giá trị của đồng lương, mà vì  những món lợi kếch sù sẽ thu được khi ngồi vào chiếc ghế đó. Đó cũng là lý do tại sao ở Việt Nam ngày nay không quan chức nào chịu từ chức dù kém cỏi hoặc mất uy tín đến đâu đi nữa.
 
Chữa bệnh gì cũng phải chữa từ nguyên căn của nó. Chữa một mụn nhọt nếu chỉ bôi thuốc đỏ bên ngoài mà không nặn lấy hết cồi thì không bao giờ hết nhọt.  Nếu chỉ kêu gọi “phê và tự phê”, thậm chí tìm diệt từng cá nhân tham nhũng thì không khác nào chỉ bóc một phần lớp da bên ngoài. Nói đến tham nhũng ở Việt Nam không thể bỏ qua đặc thù “tham nhũng tập thể”. Nói đến nguyên nhân tham nhũng  không thể bỏ qua nguyên nhân của tình trạng lương không đủ sống kéo dài . Và càng sai lầm nếu cho rằng đến nay công chức vẫn sống được và sống tốt hơn trước nên chưa cần đặt ra vấn đề tăng lương!    

Nếu thật sự muốn chống tham nhũng
Vẫn biết để giải quyết vấn nạn tham nhũng như hiện nay ở Việt Nam không thể làm nhanh và triệt để trong một thời gian ngắn và bằng một số biện pháp đơn giản. Nhưng  trước hết cần có cách tiếp cận chủ động, tích cực và kiên quyết. Đó là yếu tố quan trọng quyết định thành công. Giải pháp cụ thể xin nhường lại các nhà chuyên môn, chuyên ngành. Song làm gì cũng không nên thiếu  4 nhóm biện pháp cơ bản dưới đây.
a)     Hoạch định một lộ trình hoàn chỉnh hợp lý về cắt giảm biên chế song song với việc tăng lương, trong đó biên chế phải được cắt giảm khoảng ½ so với hiện nay, đồng thời   lương tối thiểu phải tăng lên tương ứng nhằm đảm bảo mỗi cán bộ công chức có thể sống và góp phần (với lương vợ hoặc chồng) nuôi sống gia đình của họ mà không phải làm việc thêm nào khác. Mức lương đó phải đủ sức hấp dẫn khiến cho mỗi công chức phải chọn lựa giữa lương hoặc mất chức do tham nhũng.
   Thời gian thực hiện: không chậm hơn  từ 3-4 năm.
b)    Thiết lập lại toàn bộ chế tài để đảm bảo rằng mọi công chức nếu vi phạm  tham nhũng hoặc không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị mất chức ngay lập tức, không thuyên chuyển sang đơn vị khác. Bộ chế tài này cần có sự đồng thuận của công chức và của nhân dân, và được Quốc hội phê chuẩn.  
c)     Chấp nhận và áp dụng hình thức tham khảo ý kiến của người dân (public opinion poll) và bỏ phiếu tín nhiệm (credit voting) đối với tất cả lãnh đạo và công chức trực tiếp liên quan đến những người tham gia bỏ phiếu. Đây là hình thức  hầu hết các nước tiến bộ trên thế giới đã và đang làm, không có lý gì Việt Nam muốn cải cách tiến bộ mà không áp dụng.
d)    Chấp nhận và thực hiện công khai minh bạch đối với  3 biện pháp nói trên cũng như toàn bộ chủ trương chính sách và kế hoạch thực hiện.  Đây là trách nhiệm của các cấp đảng và chính quyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đảm bảo dư luận và mỗi cá nhân người lãnh đạo và công chức biết rõ về trách  nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình. Trên cơ sở đó thực hiện tốt việc giám sát lẫn nhau và giám sát của nhân dân.

Những điều trên đây nói là để nói thôi. Ai cũng biết và cũng nói "chống tham nhũng". Nhưng không biết ai chống ai đây? Liệu có ai chịu cầm búa ghè vào chân mình không nhĩ? 
Ghi chú: Nhân dịp Quốc hội đang nghị bàn về chống tham nhũng, chủ blog Bách Việt xin đăng lại bài cũ với một số chỉnh sửa so với bài này cũng đã được đăng trên Báo Nông nghiệpVN theo đường link http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/72/1/1/96693/Tham-nhung-Ai-chong-ai.aspx

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Khi ngành nào cũng tự hào lớn mạnh

Nhân ngày thành lập Ủy ban Kiểm tra trung ương (của Đảng)-16/10/1948-16/10/2013, các vị lãnh đạo và  phương tiện thông tin đại chúng đồng loạt ca ngợi sự "trưởng thành vượt bậc" về số lượng và chất lượng của ngành Kiểm tra. Mới nghe thật phấn khởi, nhất là người trong ngành rất đỗi tự hào. Sao không (?), nếu biết khi mới thành lập chỉ có 3 biên chế đến nay đã có hơn 6.000 cán bộ chuyên trách từ cấp quận, huyện trở lên và hơn 65.000 cán bộ kiểm tra kiêm chức, tức là tăng hơn chục vạn lần. Nội dung công việc tất nhiên là rất lớn, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu... vì tình trạng sai phạm ngày càng nhiều và nghiêm trong hơn bởi chính đội ngũ công chức ngày càng phình to.

 
Trên đây là một trong hàng vạn trường hợp cho thấy cách nhìn và đánh giá vế sự "lớn mạnh" vốn rất phổ biến ở nước ta.  Phải chăng đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất khả thi (nếu không nói là "bất lực") trong cái gọi là "cải cách hành chính" tại đất nước này? Ca ngợi và tự hào như thế có khác nào khuyến khích việc tăng cường biên chế vô tội vạ bất chấp tình trạng mất cân đối nghiêm trọng cơ cấu dân số và ngân sách quốc gia ( Được biết Việt Nam hiện có gần 90 triệu dân nhưng có tới 25 triệu người "làm công ăn lương" nếu kể các công ty nhà nước và lực lượng vũ trang). Có lẽ chỉ Việt Nam mới  2 bộ máy với đầy đủ các cơ quan, ban ngành ngang dọc, đó là Đảng và Nhà nước. Trong khi đại đa số nước trên thế giới chỉ có 1 nguyên thủ quốc gia thì Việt Nam có tới 4 vị cùng tương đương "nguyên thủ quốc gia", đó là là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội, tạo thành một "cơ chế" chồng chéo rườm rà kém hiệu quả. Vị nào cũng có quyền ký kết các văn kiện hợp tác với nước ngoài nhưng phần thực hiện là "của chung". Khi đi thăm nước ngoài vị nào cũng sử dụng chuyên cơ với đoàn tùy tùng hùng hậu; khi đón một nguyên thủ nước ngoài thì cả bốn vị đều tham gia như kiểu "bốn chọi một"...!

Thử nhẩm tính xem cần bao nhiêu tiền và lấy đâu ra cho đủ để trả lương cho đội ngũ công chức đông đảo như vậy(?)  Và cũng rất khó mỗi khi ngồi lại bàn xem nên "cắt giảm" ai, vị trí chức vụ nào, v.v.... Có lẽ đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhùng nhằng tắc tị của chủ trương cắt giảm biên chế đã có từ ngót nửa thế kỷ nay; càng hô hào cắt giảm thì nó càng phình to./.               

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Hiểu ý Bác Tổng rồi!

Theo TT Ngày 28-9-2023, http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/571539/khong-nen-quy-dinh-cung-tong-bi-thu-kiem-chu-tich-nuoc.html Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri các quận Tây Hồ và Hoàn Kiếm (TP Hà Nội) trước kỳ họp thứ 6 của Quốc hội đã đề cập hàng loạt vấn đề hệ trong của đất nước, trong đó có đoạn này mình thấy rất tâm đắc.

“Cơ chế Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước đã có nhiều ý kiến nêu ra từ mấy nhiệm kỳ rồi. Trung Quốc và Lào cũng có cơ chế như vậy. Ở nước ta, vấn đề này do Đảng phân công, còn Chủ tịch nước thiết chế bộ máy nhà nước không phải cá nhân con người cụ thể. Tùy từng giai đoạn có thể kiêm hay không kiêm là do trung ương phân công Tổng bí thư sang làm Chủ tịch nước, đó là việc nội bộ không nên ghi “cứng” vào Hiến pháp. Cũng phải nói thật, đề phòng trường hợp quyền lực quá tập trung vào một người, xảy ra cái gì nếu tốt là phúc cho dân tộc, nhưng chẳng may nếu tính toán không kỹ thì để lại hậu quả. Bây giờ Chủ tịch nước lại là chủ tịch Hội đồng Hiến pháp nữa thì quyền to quá. Ta là cơ chế lãnh đạo tập thể. Bác Hồ nói rồi, nguyên tắc là lãnh đạo tập thể, phân công trách nhiệm cá nhân. Phát huy được dân chủ thì tốt hơn”.


Từ ngày nghỉ hưu lạc hậu thông tin, nhưng cũng đủ để cảm nhận rằng Bác Tổng nói vậy là rất thật lòng và cũng rất rõ ý tứ: Vấn đề ai làm gì (cụ thể) thì "do Đảng phân công", còn bộ máy (chung chung) thì giao Chủ tịch nước làm, nếu thấy đủ điều kiện thì Tổng Bí thư kiêm luôn cho tiện, nếu không thì cứ chờ đấy! (Hiện tại  như bản thân đây mà chưa đủ điều kiện thì còn ai đủ điều kiện?)....Trao quá nhiều quyền lực cho một người nào cũng đều nguy hiểm, phức tạp.... Bác Tổng nhìn vấn đề rất chi là biện chứng. Các nước tư bản họ có quy chế Tổng thống, Thủ tướng...thực quyền là chuyện của họ. Các nước anh em lớn như Trung Quốc và  nhỏ như Lào có hoàn cảnh riêng của họ; Việt Nam ta có đặc điểm của ta và do đó phải kiên quyết giữ vững đường lối độc lập tự chủ.... Việt Nam cách mạng nên lúc nào cũng có nhiều kẻ thù rình rập mà!. Với Bác Tổng, nhân dân có nhiều loại, ai nghe theo Đảng là nhân dân yêu nước, ai không nghe theo là phản động hoặc "diễn biến..."  Đó là tất cả lý do tại sao không nên ghi quy chế Tổng Bí thư Đảng kiêm Chủ tịch nước vào Hiến pháp mà cứ để lỏng lẻo để tiếp tục làm thí điểm dài dài cho nó tiện và chắc ăn (!). Chuyện này Đảng đã tính kỹ rồi; còn việc thực hiện dân chủ đâu có gì quan trọng, đàng nào Đảng cũng vì lợi ích nhân dân. Nhưng trước hết và trên hết phải vì sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Bỏ ghi họ tên cha và mẹ trên chứng minh nhân dân

Sau bao tốn kém thời gian công sức và tiền bạc, cái ý tưởng không giống ai đã bị xếp vào sọt rác. Đó chỉ là một trong rất nhiều minh chứng về nền hành chính công rườm rà được vận hành bởi những quan chức tham, sân, si.., nhàn cư vi bất thiện. Sở dĩ họ đưa ra "sáng kiến" ghi tên cha mẹ vào CNND vì nó có lợi đôi đường: Nhìn vào CMND là biết con ông/bà lớn nào để không phạm úy, đồng thời để đồng đội nhận biết con của nhau mà tha tội. Chỉ vì một lợi ích cá nhân cỏn con mà rách việc thế đấy! -(Bách Việt).  

Theo TTXVN ngày 18/9/2013, Chính phủ vừa ban hành Nghị định 106/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/1999/NĐ-CP ngày 3/2/1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007.

Theo Nghị định mới, sẽ bỏ phần ghi tên cha, mẹ trên chứng minh nhân dân. Bỏ cụm từ "họ và tên cha," "họ và tên mẹ" tại mặt sau của chứng minh nhân dân.

Ngoài ra, bổ sung cụm từ "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" vào bên dưới cụm từ "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" tại mặt trước chứng minh nhân dân.

Về thời gian cấp mới, đổi, cấp lại chứng minh nhân dân, theo Nghị định 05/1999/NĐ-CP, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ và làm xong thủ tục theo quy định, cơ quan công an phải làm xong chứng minh nhân dân cho công dân trong thời gian sớm nhất, tối đa không quá 15 ngày (ở thành phố, thị xã) và 30 ngày (ở địa bàn khác).

Tại Nghị định 106/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung như sau: kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ và làm xong thủ tục theo quy định, cơ quan Công an phải làm xong chứng minh nhân dân cho công dân trong thời gian sớm nhất.

Thời gian giải quyết việc cấp chứng minh nhân dân tại thành phố, thị xã là không quá 7 ngày làm việc đối với trường hợp cấp mới, cấp đổi; 15 ngày làm việc đối với trường hợp cấp lại.

Còn tại các huyện miền núi vùng cao, biên giới, hải đảo, thời gian giải quyết việc cấp chứng minh nhân dân đối với tất cả các trường hợp là không quá 20 ngày làm việc; các khu vực còn lại thời gian giải quyết việc cấp chứng minh nhân dân là không quá 15 ngày làm việc đối với tất cả các trường hợp.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 2/11/2013.

Đối với chứng minh nhân dân đã được cấp theo Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính phủ vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn theo quy định.

Thứ Năm, 4 tháng 7, 2013

Đất công vào túi ai?



Có thể nói, tệ nạn tham nhũng ở Việt Nam ngày nay đã trở thành một căn bệnh nan y, trong đó tham nhũng đất công là chứng bệnh rất khó phát hiện và khó điều trị. Bởi lẽ đất công có ở mọi nơi; trừ một số nơi "khỉ ho cò gáy", còn lại thường bị sử dụng sai muc đích, thậm chí bị tranh cướp giữa các nhóm lợi ích trong sự quản lý đầy sơ hở của các cơ quan chính quyền. Riêng tại Quận Cầu Giấy là địa bàn phát triển nóng nhất trong quá trình mở rộng Thủ Đô, có rất nhiều hình thái xâm phạm đất công, và một trong những thủ đoạn phổ biến là núp bóng những "dự án" với những cái tên mĩ miều như "xã hội hóa","khai thác quỹ đất" và "đổi đất lấy công trình" v.v...Chúng không chỉ gây nên tình trạng thất thoát công của mà còn gây ra những hậu quả khôn lường đối với môi trường sống. Bài viết này trước hết nói về tình trạng tại Công viên Cây xanh Nghĩa Đô mà bản thân người viết đã từng tham gia lao động để xây dựng nhiều năm về trước.


Công viên Nghĩa Đô đang trở nên quá tải so với nhu cầu dân số

Những "tam giác vàng" vây hãm Công viên Nghĩa Đô

     

Tôi xin phép  sử dụng tấm bản đồ của Google Maps và đánh dấu vào đó một số hình tam giác màu da cam tượng trưng cho các lô đất công bị sử dụng sai mục đích mà người dân địa phương gọi là những "tam giác vàng" vì cho rằng chúng đưa lại những giá trị kết xù cho ai đó. Điều này cũng đã được phản ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng ở các mức độ khác nhau. Có ít nhất là 5 "tam giác vàng" như thế nằm bên trong và bên ngoài Công viên lần lượt được đánh số theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống như sau:
 

1) Lô đất  nằm bên trong rào Công viên (tại góc Phố Tô Hiệu và đường Nguyễn Văn Huyên). Tấm ảnh bên cho thấy hiện tại có một khối nhà 4 tầng vừa xây xong phần thô và một khối nhà khác đang đào mống. Những "dự án" này đã bắt đầu hơn một năm nay nhưng chưa hề thấy công báo chính thức ai là chủ và mục đích để làm gì, v.v...
 
Ảnh một trong 3  ki-ốt bên cạnh Khu vui chơi trẻ em
2) Lô đất bên trái cổng chính của Công viên từ tháng 9/2012 đã biến thành "Khu vui chơi cho trẻ em" kèm theo 3 ki-ốt chiếm trọn  1/4 diện tích đất (chưa kể hồ nước) của Công viên. Dự án đã diễn ra khá nhanh và bất ngờ. Khi có ý kiến thắc mắc từ người dân thì được thông báo là của Trung tâm khai thác quỹ đất, Quận Cầu Giấy, và nguồn kinh phí "huy động từ các doanh nghiêp..."
 

3) Lô "đất kẹt" sát bờ rào Công viên phía đường Trần Đăng Ninh từ lâu đã biến thành quán Bia hơi Thu Hằng. Quán này sử dung hàng rào sắt của Công viên làm "cửa sổ" và là một tụ điểm ăn nhậu nhộn nhạo suốt ngày đêm,  thường xuyên thảy nước bẩn hôi thối ra hồ Công viên chỉ cách đó vài ba mét. 
  
4) Lô "đất kẹt" liền kề bên phải Nhà văn Hóa Phường Dịch Vọng một mặt giáp rào Công viên, mặt kia giáp Phố Chùa Hà. Diện tích gần 4.000 m2 này nguyên là đất cây xanh nhưng gần đây được "hô biến" thành một động cafe có tên tiếng Anh là New Wind Cafe. Không chỉ xây khu vệ sinh và nước thải sát đường dạo ven hồ của Công viên, quán này còn đang có ý đồ bành trướng sang một mảnh "đất kẹt" hình tam giác khác đang bỏ hoang phế phía sau bên trái Nhà Văn hóa Phường Dịnh Vọng. Nếu ý đồ này được thực hiện thì quán sẽ là một "mê cung" đấy!  
 
5) Cuối cùng nhưng lớn nhất là lô đất nằm giữa khu dân cư và trường học có mặt tiền hàng trăm mét sát Công viên Nghĩa Đô. Đó là một vị trí rất đắc địa xét về mọi tiêu chí, nhưng cũng là vị trí rất "phản cảm" xét theo nguyên tắc "KHÔNG ĐƯỢC XÂY BỆNH VIỆN..." của Thành phố Hà Nội. Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao nó lại được "giao cho" bệnh viện Hoa kì-Hà Nội và hơn 10 năm nay vẫn chưa thể đi vào vận hành? 
 
Nỗi bức xúc từ công luận 
Điểm chung nhất đối với các "tam giác vàng" nói trên là diện tích từ lớn đến rất lớn, nhưng tại sao không thấy công báo chính thức và đầy đủ trước cộng đồng dân cư về phương thức giao đất, thời gian giao đất và nguồn thu ngân sách bao nhiêu, nộp về đâu, v.v...Người dân không được biết không được bàn, cũng chẳng được kiểm tra.  

Theo quy hoạch tổng thể Công viên Nghĩa Đô là một công viên cây xanh (chứ không phải khu vui chơi giải trí). Tuy nhiên không rõ từ quan điểm nào và mục đích gì mà Quận Cầu Giấy tự ý cho thay đổi công năng của Công viên bằng việc phá bỏ các hạng mục với nhiều cây xanh, bồn hoa, ghế đá và hệ thống dường dạo hoàn chỉnh để thay vào đó bằng một khu vui chơi và các ki-ốt? Nếu người ta cho rằng cần có thêm chỗ vui chơi cho trẻ nhỏ, sân tập cho người lớn  thì tại sao không chọn các lô đất số 1, 3, và 4 là những lô đất thích hợp hơn nhiều? Phải chăng những lô đất đó là "của để dành" cho một vài nhà "đầu tư ruột" có chủ đích trước, và đó là phương thức "xin-cho" luôn kèm theo những món "lại quả" đầy sức hấp dẫn, hoặc do những nhân tố "lợi ích nhóm" nào khác?  

Thiết nghĩ, chức năng và nghiệm vụ hàng đầu của Quận Cầu Giấy trước hết là duy tu bảo dưỡng kịp thời tình trạng xuống cấp nghiêm trọng kéo dài của Công viên  Nghĩa Đô (như có thể thấy qua một số hình  ảnh cập nhật dưới đây). Tuy nhiên điều khó hiểu là Quận Cầu Giấy dường như không chú ý thực hiện chức năng đó, trái lại đang dung túng cho một số nhóm lợi ích lăm le chia cắt hoặc vây hãm Công viên cây xanh có vai trò rất thiết thực này trước nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng dân cư.   


Bờ kè và đường quanh hồ sứt mẻ...

Đá  ốp bệ cổng bong tróc từ  nhiều năm nay 
Những hàng cột điện xiêu vẹo 

Chỉ một số người nhà "được phép" câu cá
Nhiều ghế đá gẫy vỡ

Các lối dạo  và sân tập lồi lõm , ngập nước

Bồn phun nước giữa hồ bị hỏng 2 năm nay

Trên đây là một vài sự thật và thắc mắc mà công chúng đều biết; báo chí cũng đã nhiều lần nêu lên. Tuy nhiên, cùng với thời gian trôi qua tình trạng lạm dụng đất công bên trong và xung quanh Công viên Nghĩa Đô vẫn ngang nhiên tiếp diễn bất chấp sự phản đối của công luận. Thậm chí có tình trạng câu kết giữa các thế lực tham nhũng nhằm bao che, đối phó với công luận. E rằng, với đà này những diện tích đất công tại khu vực này sẽ vĩnh viễn biến thành đất tư, trong khi Công viên cây xanh Nghĩa Đô đang xuống cấp và đứng trước nguy cơ bị chia cắt và thu hẹp nghiêm trọng. 

Để khắc phục, thiết nghĩ, đã đến lúc các Cơ quan nhà nước, kể cả Thanh tra Chính phủ và Quốc hội cần vào cuộc điều tra làm rõ và đưa ra những biện pháp xử lý kịp thời nhằm chặn đứng xu hướng sử dụng sai mục đích đối với đất công nói chung; đối với những diện tích liền kề Công viên Nghĩa Đô nên thu hồi và sát nhập vào Công viên là hợp lý nhất.
     

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2013

Tìm lại những giá trị bị đánh mất?

Một cửa hàng tạp phẩm thời bao cấp tại Hà nội
Từ những năm 1970 của thiên niên kỷ trước, ở miền Bắc đã có câu chuyện tiếu lâm rằng đất nước ta giống như người  mù cụt một chân chống nạn đi và đi mãi để rồi thấy mình trở lại điểm  xuất phát. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời bấy giờ đó là một cách "phản biện" dù không có mấy tác dụng. Và câu chuyện vẫn lưu truyền đến ngày nay với ngày càng nhiều hơn những minh chứng về cái sự đi vòng tròn như thế .


Đầu tiên có thể nói đến là cuộc cải cách ruộng đất mà sau này được nhận ra là "sai lầm ấu trĩ " khi chính quyền tước đoạt ruộng đất khỏi các thành phần địa chủ phú nông tức là những người biết làm ăn để trao vào tay các thành phần bần cố nông mà trong đó có nhiều người thực ra do không biết làm ăn hoặc lười biếng trở thành bần cùng. Tiếp đến, toàn bộ ruộng đất và sức lao động (người, trâu bò và công cụ) được đưa vào  HTX quanh năm theo đuổi các phong trào thi đua, lúc thì hô hào cấy dầy, lúc lại bảo "cấy thưa thừa thóc, cấy dầy cóc được ăn"... Rốt cuộc năng suất thóc gạo ngày càng  giảm sút khiến cả nước rơi vào tình trạng thiếu đói trong nhiều thập liên tiếp buộc phải dừng lại để mò mẩm mong tìm lại những gì đã bị đánh mất trong quá trình cuộc cải cách . Thử hỏi các chủ trang trại giàu có ngày nay có gì khác với những địa chủ ngày xưa mà phải tốn quá nhiều thời gian và mất mát để đánh đổi như vậy?

Cũng đã diễn ra một quá trình tương tự trong lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đó là cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh bắt đầu từ những năm 1960 ở miền Bắc đã nhanh chóng xóa bỏ các thành phần biết sản xuất và buôn bán và trao toàn bộ các cơ sở sản xuất kinh doanh vào tay những người thợ và cán bộ, bộ đội vừa qua các lớp đào tạo cấp tốc. Công cuộc cải tạo này bắt đầu muộn hơn nhưng kịp thời để xóa bỏ những mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở niềm Bắc và tiếp đến  ở cả miền Nam sau giải phóng kéo theo nhiều  hậu quả chính trị-xã hội rất nặng nề khác. Liệu có gì khác giữa các các nhà tư sản dân tộc trước đây  với đội ngũ doanh nhân  ngày nay nếu không phải là sự giàu lên nhanh chóng nhờ tham nhũng của lớp doanh nhân sau này?   

Thực ra còn rất nhiều những cuộc "đi vòng tròn" của người mù chống gậy như thế đã liên tục diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi thời gian và không gian cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Cái gọi là chiến lược "đi tắt đón đầu" nghe rất kêu đến nay vẫn chỉ là con số 0 to tướng. Ngành chế tạo ô tô được coi là một "mũi nhon" công nghiệp hóa, hiện đại hóa sau hơn 30 năm chỉ là một thị trường tiêu thụ xe nhập khẩu từ nước ngoài. Đau nhất là công cuộc cải cách hành chính, khi Lãnh đạo càng hô hào tinh giản biên chế thì biên chế càng phình to, càng hô hào đơn giản thủ tục thì thủ tục càng nhiều và càng rắc rối. Người dân sợ và ghét quan công an và chức hơn thời phong kiến thực dân ghét quan lại.    
Quốc hội Việt Nam
Quang cảnh khai mạc kỳ họp thứ V Quốc hội khóa XIII ngày 20/5/2013
Gần đây lại rộ lên cuộc thảo luận về đổi tên nước trong khuôn khổ đợt vận động lấy ý kiến sửa đổi Hiến Pháp. Suy cho cùng đây cũng chỉ là biểu hiện của trạng thái bế tắc và nhu cầu tìm lại những giá trị bị đánh mất mà thôi. Có điều là, những thứ bị đánh mất này không phải là những vật cụ thể như thỏi vàng hay viên kim cương... mà là những giá trị trừu tượng chỉ hình thành với sự chín mùi của một quá trình vận động lịch sử. Tên nước VNDCCH dù sao đã là kết quả của quá trình cách mạng giải phóng dân tộc sao bổng chốc có thể thay đi đổi lại? Bài học đáng tiếc của việc thay đổi tên CHXHCNVN tưởng đã rõ rồi sao giờ còn muốn lặp lại? Cuộc tìm kiếm này một lần nữa diễn ra đầy kịch tính xung quanh cuộc thảo luận về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Trong khi công chúng nêu nguyện vọng tiến tới xóa bỏ Điều IV thì giới chức lại đưa ra 3 nội dụng "cố thủ" rắc rối hơn. Có thể nói đã hình thành hai quan điểm trái ngược nhau xung quanh câu chuyện sửa đổi và bổ sung Hiến pháp như thế nào . Và sự khác biệt này đang ngày càng tăng lên.  

Những sự thật trên đây cho thấy điều gì? Xin nhường lại câu trả lời cho tất cả các bạn đọc./.
   

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013

Lựa chọn nào cho chính trường Việt Nam?

Hội nghị TW 7 chưa  hoàn toàn kết thúc, nhưng những gì diễn ra  từ sau Đại hội Đảng lần thứ XI đang cho thấy một tình hình mới hiếm có trong chính trường đất nước, đó là sự bất đồng giữa Trung ương và Bô Chính trị xung quanh chủ đề nhân sự và chiến dịch chống tham nhũng. Điều này được thể hiện qua kết quả của Hôi nghị TW 6 và Hội nghi TW 7 cách nhau không đầy một năm. Tại Hội nghị TW 6 đã bỏ phiếu đa số tuyệt đối bác bỏ nghi quyết của Bộ Chính trị về việc "thi hành kỷ luật một ủy viên bộ Chính trị...". Và mới đây tại Hội nghị TW 7 lại bác bỏ danh sách đề cử bổ sung nhân sự của Bộ Chính trị, trong đó có nhân vật chủ chốt Nguyễn Bá Thanh-người đang giữ chức Trưởng Ban Nội chính Trung ương (tức cơ quan chỉ huy chống tham nhũng) và do đó rất cần thiết có chân trong Bộ Chính trị để phát huy đầy đủ quyền lực. Đó là những dấu hiệu cho thấy sự mâu thuẩn đến mức nào và không chỉ giữa các thế lực lãnh đạo chóp bu mà còn giữa các trào lưu tư tưởng và lợi ích trên quy mô toàn quốc.


Có thể nói, đại đa số người dân Việt Nam không tránh khỏi cảm giác thất vọng trước diễn biến tình hình nói trên.Với  lòng tin sâu sắc rằng tham nhung là nguyên nhân chính ngăn cản bước tiến của đất nước và được Đại Hôi Đảng XI tái xác nhận "đang đe dọa sự tồn vong của chế độ", người dân đặt kỳ vọng vào chiến dịch chống tham nhũng do vị Tổng Bí thư (được hiểu là Đảng và Nhà nước) phát động. Đó cũng là lý do để người dân cảm thấy thất vọng về vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời bất bình trước sự cố kết của các thế lực tham nhũng đang ăn tàn phá hại nền kinh tế đất nước với những hậu quả không thể chối cãi. Nhiều ý kiến quả quyết rằng "bác Tổng đi sai nước cờ" hoặc do "thiếu quyết đoán" nên đã thất bại ... Dĩ nhiên, trong khi ván cờ còn chưa đến hồi kết thúc, thì ai đó  vẫn có quyền hy vọng... Nhưng đối với những người xem bên ngoài thì thắng thua coi như đã rõ. Và cảm nhận chung là một sự bi quan bao trùm.

Tuy nhiên, còn một "cách tiếp cận win-win" khác xem ra cũng rất  có lý. Đó là hãy coi tình hình hiện nay như một hình thái mới xuất hiện trong chính trường Việt Nam, mà từ đây sẽ có thể dẫn đến những thay đổi theo hướng tích cực. Cơ sở cho cách tiếp cận này là dựa vào quy luật tiến hóa: Những gì đã lỗi thời sớm muộn cũng phải bị đào thải để nhường chỗ cho cái mới phát huy. Cách tiếp cận này cho rằng trong chính trường Việt Nam lâu nay mọi thứ thường diễn ra một hướng và bao giờ cũng êm đềm trong bối cảnh  chẳng có đối lập cũng không có cánh tả, cánh hửu hay quân đỏ, quân đen... thì  sự kiện đấu đá nội bộ vừa xảy ra giữa Ban Chấp hành TW và Bộ Chính trị đúng là một hiện tượng  mới, thậm chí đáng lo ngại (đến nỗi ông Tổng Bí thư cũng phải khóc đấy thôi!). Nhưng, so với thế giới thì đó là một hiện tượng rất bình thường. Đúng ra, nên coi đó là hiện tượng lành mạnh hiếm có trong chính trường Việt Nam để lấy đó làm niềm an ủi và cảm hứng. Có người mô tả nó như cuộc đấu giữa "Phủ chúa" và "Cung vua" nghe khá hình tượng.  Nhưng nếu gọi đó là cuộc đấu giữa  "Nhóm lợi ích"  và "Nhóm bảo thủ" thì có lẽ chính xác hơn. Thực ra hai nhóm đó chẳng nhóm nào tốt hơn nhóm nào. Nhưng vào lúc này nếu có thể lựa chọn thì người ta nên lựa chọn cái "ít xấu hơn", đó là Nhóm lợi ích. Lý do đơn giản là vi dù sao nhóm này đã "ăn đủ" rồi và hi vọng bọn họ ít nhiều đã hiểu được cái giá phải trả cho sự tham nhũng(?). Còn Nhóm bảo thủ như thường lệ quá đề cao lý thuyết chính trị là thống soái và xa rời với thực tế. Họ tưởng có thể chống tham nhũng bằng thứ vũ khí "phê và tự phê" trong khi vẫn duy trì cơ chế và luật lệ đã bị bản thân coi  là "bất cập" từ lâu rồi.    

Đó là nói trong trường hợp có thể chọn lựa.  Nhưng e rằng không dẽ diễn ra kịch bản lựa chọn như vậy! Bởi lẽ luôn còn đó nguy cơ của sự thỏa hiệp giữa Nhóm bảo thủ và Nhóm lợi ich như nó vốn vẫn diễn ra. Và sự thỏa hiệp còn nguy hại hơn nhiều. Đó cũng là nguyên nhân của tình trạng tiến thoái lưỡng nan thường thấy trong chính trường Việt Nam lâu nay./.        











Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Minh bạch không dễ

question[1]Tối qua đáng lẽ tắt TV đi ngủ, lại tình cờ chạm tay vào một nút trên bản điều khiển máy thu hình và nhìn thấy Bộ trưởng Vũ  Đức Đam đang trả lời phỏng vấn báo chí. Ok, ai chứ ông Đam thì nên nán lại xem. Thú thật mình vẫn ngưỡng mộ ông Đam  không chỉ vì ông là một trong số ít ỏi gương mặt bộ trưởng trẻ nhất của đất nước mà còn vì một cảm nhận có từ vài lần tiếp xúc trong quá trình công tác trước đây. Và có lẽ đó là lý khiến mình hay dõi theo nhân vật này (?).

Chủ đề cuộc họp báo đó xem ra khá thiết thực. Và ông Đam một lần nữa lại "ghi điểm" đối với mình. Phải nói là ông ấy đã không phạm một lỗi nào, kể cả về nội dung và tác phong lẫn văn phong.  Tuy nhiên, điều mình sắp nói dưới đây là một việc hoàn toàn  khác. Đó là một cảm nhận  khó diễn đạt; khó theo cả hai nghĩa đen và nghĩa bóng, tức là nhận diện nó là gì , và có dám nói ra không. Dù sao mình cứ thử mạo muội trình bày như dưới đây.

Trong phần trả lời về việc tăng giá xăng và việc đấu thầu vàng miếng- vốn là vấn đề thời sự nóng bỏng hiện nay, ông Đam đã nhã nhặn và từ tốn giải thích có đầu có đuôi mọi nhẽ, phải nói là rất có tình có lý. Ông  nhắc lại rằng Chính phủ đã định tăng tăng giá xăng từ năm ngoái nhưng chưa tăng..., lần này tăng "vì đã hết tiền bình ổn"....Ông cũng cho biết, Chính phủ cân nhắc chủ trương, nhưng việc tăng hay không và tăng bao nhiêu là phải dựa vào số liệu và đề nghị của ngành chủ quản .... Theo ông, giá xăng thế giới tuy đang giảm nhưng không nhiều và nói chung giá xăng ở VN vẫn thấp hơn thế giới (?). Khi  một phóng viên có ý hỏi tại sao không minh bạch về "Quỹ bình ổn xăng dầu"mặc dù nó đã được tiêu sắp hết rồi(?), ông Đam bảo: "Xin ghi nhận rút kinh nghiệm ".   

Về chuyện đấu thầu vàng miếng, ông Đam không nói gì nhiều mà để một bà chuyên gia ( tôi quên tên, và cũng không hoàn toàn chắc chắn bà này trả lời trực tiếp tại cuộc họp báo hay đã ghi hình trước đó?, ai biết bổ sung giúp) .Dĩ nhiên bà này đã nói, tuy có phần kém thuyết phục hơn ông Đam, nhưng tinh thần vẫn là Nhà nước làm như vậy là đúng cả. Bàn chẳng thêm giải thích tại sao giá đấu thầu lại cao hơn cả giá thị trường, và điều đó sẽ lại dẫn đến một đợt tăng giá vàng nữa hay không.

Nhìn chung mọi câu hỏi dù khá sắc sảo của giới phóng viên cùng những nỗi băn khoăn bức xúc ngoài nhân dân đều có vẽ "không vấn đề" trước sự giải thích của người Đại diện Chính phủ và các quan chức hửu trách. Đúng sai chỉ có thể tự rút ra sau khi mọi việc đã được thực hiện. Nhưng đến lúc đó không còn biết đâu là đâu nữa, thậm chí một lời  xin lỗi cũng không có, như  đã xảy với Vinashine, hay ngay cả với dự án  khai thác bauxit Tây Nguyên hiện nay.  Hôm qua Bộ trưởng Vũ Đức Đam và bà chuyên gia vàng miếng đều đã hoàn thành xuất sắc phần trả lời báo chí với cương vị của mỗi người. Nhưng vấn đề ở đây là liệu họ đã nói thực lòng với sự hiểu biết của họ về lợi ích của người dân và của nền kinh tế đất nước, hay nọ chỉ nói vì nhiệm vụ được giao? Ngoài ra, Chính phủ với tư cách là cơ quan điều hành tại sao chỉ dựa vào báo cáo của đương sự (lúc nào cũng muốn tăng giá), mà không dựa vào các tiêu chí quản lý kinh tế và nguyện vọng của người dân để ra quyết định?  Chẳng lẽ Chính phủ với đầy đủ tai mắt trong và ngoài nước cùng các cơ quan tư vấn quốc tế  lại không biết giá xăng trên thế giới dù tăng giảm thất thường, nhưng bao giờ cũng phải giữ ở một tỷ lệ chấp nhận được so với mức thu nhập của người dân? Không thể có chuyện bắt nhà nghèo tiêu tiền như nhà giàu. Không thể thấy 1 lít xăng bán ở Bắc Âu  bằng 1 đô-la chẳng hạn để bắt người Việt Nam cũng phải mua xăng bằng giá ấy. Nếu làm vây thì nhiều người Việt Nam đi làm cả ngày chỉ đủ để mua xăng à? Chuyện giá vàng lại còn ngược đời hơn. Trong nhiều năm nay giá vàng ở Việt nam liên tục cao hơn thế giới với biên độ ngày càng giản rộng (hiện tại trên dưới 5 triệu động/lượng). Chẳng lẽ dân Việt Nam giàu nhất thế giới hay nước Việt nam định "cỏng" cả gánh lạm phát của đồng đô-la Mĩ ? Nếu không thì nền kinh tế Việt Nam nằm ở một hành tinh khác? 

Từ những phân vân trên, tôi có cảm nhận rằng các cơ quan Nhà  nước Việt Nam ta chưa hề có phong cách điều hành minh bạch. Chính phủ luôn cho mình làm đúng và có lý có tình, nhất là sau khi đã tham khảo các bộ/ngành và các cấp ... Và lãnh đạo vẫn cho rằng đối với nhân dân chỉ cần  làm tốt công tác giải thích tuyên truyền là đươc! Còn  minh bạch ư?, phải từ từ từng bước rút kinh nghiệm...,chứ đâu có dẽ với một đất nước đang chuyển đổi như Việt Nam (!). Ngay cả những yêu cầu minh bạch tối thiểu như thông tin hàng ngày cũng không đủ. Có lẽ vì chưa thấy đúng mức tiêu chí minh bạch, nên lâu nay giới Lãnh đạo vẫn chưa thực sự coi trong tiêu chí minh bạch, biểu hiện cụ thể là chưa thể hiện bằng thể chế hóa và luật hóa cơ chế bộ máy Nhà nước cũng như đảng cầm quyền nhằm tránh sự lạm dụng của cá nhân hoặc nhóm quyền lực. Chừng nào chưa có đầy đủ những điều kiện như vậy, thì sự minh bạch vẫn chỉ là một khẩu hiệu. Sự minh bạch thiếu vắng ở mọi cấp độ và mọi lĩnh vực, từ khâu làm giấy khai sinh cho đến khi khai tử, và cả trong đời  sống kinh tế-xã hội cũng như trong tư tưởng và chính trị. Quần chúng nhân dân đã quá quen với việc lắng nghe và làm theo sự chỉ đạo của cấp trên, hoặc theo gương của lãnh đạo, v.v...Quen đến mức quên cả bản thân mình thực sự nghĩ gì và muốn gì. Tai hại hơn là, nếu có ai không làm như thế sẽ bị coi là sai lầm, là diễn biến..., thậm chí là phản động, chống đối... Phải chăng đây chính là một thói quen cố hửu đang ràng buộc xã hội ta trên con đường tiến tới tự do, ấm no, hạnh phúc? Đó là trường hợp gần đây, Đảng và Nhà nước khẩn thiết yêu cầu nhân dân góp ý bổ sung sửa đổi Hiến pháp 1992, nhưng khi có những ý kiến mạnh mẽ, thậm chí trái ngược, thì một số vị lãnh đạo và cả bộ máy tuyên truyền lại vội quy chụp họ "suy thoái và diễn biến...". Cách làm chủ quan  như vậy vô hình trung đã tạo ra những thế lực thù địch trong nội bộ nhân dân và  giữa nhân dân và chính quyền. Chẳng lẽ không còn cách tiếp cận nào hơn thế? 

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Chuyện cũ nhớ lại: Ngoại giao làm xây dựng

Tại các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài có một loại công việc không thuộc danh mục “hoạt động ngoại giao” nhưng không thể thiếu, đó là việc chăm lo nhà cửa trụ sở để cơ quan "an cư lạc nghiệp".  Do đặc thù của ngành, công việc này thường do cán bộ ngoại giao kiêm nhiệm. Bản thân tôi tuy chỉ có 3 lần đi công tác nhiệm kỳ sứ quán, nhưng 2 nhiệm kỳ phải làm công việc bắt đắc dĩ này với những kỷ niệm vui, buồn khó quên. 
   
Lần thứ nhất khi tôi đi nhiệm kỳ sứ quán tại Harare, Zimbabwe từ 1985-1988. Thời kỳ đó kinh tế Việt Nam đang kiệt quệ, Chính phủ chủ trương cắt giảm hàng loạt Cơ quan đại diện thường trú ở nước ngoài, nhưng lại mở Đại sứ quán mới tại Zimbabwe vì nước này sắp trở thành chủ nhà của Hội nghị cấp cao KLK 8. Để tiết kiệm, biên chế Sứ quán chỉ có 4-5 người kể cả đại sứ và phu nhân. Đó là nhiệm kỳ công tác sứ quán đầu tiên của tôi sau 15 năm ra trường. Với chức vụ "bí bét" (bí thư 3) kiêm phiên dịch tiếng Anh, trên thực tế tôi phải làm mọi việc "thượng vàng" thì ít, nhưng "hạ cám" thì nhiều, trong đó có một việc tôi chưa bao giờ làm, đó là mua, bán và sửa chữa nhà.

Số là khi tôi sang, Đại sứ quán đã có trụ sở đầy đủ rồi. Nó đã được các nhóm tiền trạm thực hiện khoảng nửa năm trước. Đó là một căn nhà 1 tầng khá to nằm giữa khu vườn rộng như công viên trên mặt một đại lộ dẫn vào trung tâm Thành phố, với giá 50.000 USD. Đó là giá bình thường ở nước Zimbabwe mới độc lập, nhưng là giá rẻ bất ngờ so với Việt Nam! Tuy nhiên, đúng lúc chỉ còn hơn 1 tháng trước ngày Hội nghị cấp cao, bỗng xuất hiện hàng loạt các vết nứt nẻ trên tường. trần và sàn nhà. Lúc đó  là đầu mùa mưa. và cứ mưa là phòng nào cũng dột ướt sũng... Mọi người mất  ăn mất ngủ đã đành nhưng, vấn đề là làm sao khắc phục để kịp đón Đoàn trong nước sắp sang dự Hội nghị. Trước tình hình khẩn trương, Đại sứ Võ Anh Tuấn vốn là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp lão luyện và là người rất coi trọng hình thức, đã quyết định điện về Bộ  đề nghị cho mua ngay một ngôi nhà khác thay thế. Đó là một đề nghị phi thường vào thời đó, nhưng đã được Bộ chấp thuận ngay, có lẽ chủ yếu là nhờ uy tín của ông Đại sứ.

 Tòa Đại sứ  VN tại Harare (1986-89)
Sự cố bất thường đó khiến sứ mệnh của tôi dường như chuyển sang một hướng khác. Tôi lập tức được giao nhiệm vụ tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm và tìm nhà để mua, qua đó được biết,  hầu hết nhà một tầng ở Harare thường được xây kết cấu mống nông, tường mỏng trên nền đất đỏ cao nguyên luôn co dãn giữa mùa khô và mùa mưa, do đó chuyện nứt nẻ là rất bình thường. Chỉ nhà 2 tầng trở lên xây mống sâu, tường dầy thì ít bị hiện tượng này. Dân địa phương rất biết cách  “chung sống” với hiện tượng thiên nhiên đó, khi cần bán nhà họ “nguỵ trang” với chi phí thấp miễn sao bán được nhà trước mùa mưa là được. Người nước ngoài không biết nên mua phải nhà loại như thế cũng không có gì lạ.  Từ kinh nghiệm này, sau khi so sánh cân nhắc mọi yếu tố, ông Đại sứ đã quyết định mua một ngôi nhà 2 tầng tại một khu dân cư chủ yếu của người da trắng với một giá phải chăng là 100.000 USD. Nhà này chỉ cách nhà cũ khoảng 1 cây số, có thể đi bộ qua lại được. Mua nhà xong, cả Sứ quán liền bắt tay vào công việc sắp xếp lại cho mục đích sử dụng vừa làm trụ sở vừa làm nhà ở. Công việc lặt vặt cũng nhiều như dọn dẹp lau chuồi, sơn quét, lắp đặt trang thiết bị, treo quốc huy. gắn biển hiệu, dựng cột cờ...  Bây giờ  nói lại thì đơn giản, nhưng hồi đó là trăm thứ bà dằn...nhưng chỉ có mấy người làm, không có kinh phí thuê thợ địa phương, mà nếu thuê, họ cũng không làm ngoài giờ trong khi thời gian còn rất ít. Theo nội quy cơ quan thời đó, đi đâu cũng phải có hai người, nên cũng khó phân công mỗi người làm một việc... May mà lúc đó có anh Tâm (lái xe của Đại sứ) nguyên là Việt kiều ở Pháp về nên đỡ "rách việc". Cuối cùng mọi việc đã kịp hoàn tất trước khi Đoàn trong nước sang. 

Sau Hội nghị cấp cao, Sứ quán lại phải lo bán ngôi nhà dột để trả lại kinh phí Nhà nước. Với những kinh nghiệm vừa học được, tôi và anh Tâm đã "tút" lại căn nhà đó rồi rao bán vào đầu mùa khô. Một người Zimbabwe sống lâu năm ở Anh về nước định cư (có lẽ cũng mù mờ như người nước ngoài) đã mua căn nhà đó với giá 75.000 USD, tức là Sứ quán lãi được 25.000 USD bằng 2 tháng kinh phí của Sứ quán! Bản thân tôi thì được Đại sứ đề nghị về Bộ cho nâng lên hàm Bí thư 2 như một phần thưởng cho kết quả công tác vừa qua. Đó quả là một thành tích nếu so với trường hợp tương tự 3 năm sau, khi cả ông Đại sứ và tôi hết nhiệm kỳ rời Harare, những người mới sang thay với "đặc nhiệm" chỉ để đóng cửa  Sứ quán (sau  Hội nghị CC KLK), nhưng đã không thể hoàn thành nhiệm vụ đành phải ủy thác nhờ Đại sứ quán Cu Ba anh em lo giùm! Nghe nói số tiền còn lại chẳng được bao nhiêu.

000

Lần thứ hai khi tôi đi nhiệm kỳ Sứ quán tại Đan Mạch (2005-08). Sứ quán này kiêm cả Na Uy và Iceland nhưng cũng chỉ có 7 biên chế, do đó mỗi người cũng phải kiêm nhiệm nhiều việc. Tôi là Tham tán - Phó Cơ quan đại diện, ngoài nhiệm vụ nghiên cứu chính trị-kinh tế còn trực tiếp phụ trách Lãnh sự và Quản trị.  

Lại một sự tình cờ, đúng vào thời kỳ tôi sang nhận nhiệm vụ, Sứ quán vừa mua một ngôi nhà dự định thay ngôi nhà đang thuê làm trụ sở. Nhưng có điều là, ông  Đại sứ tiền nhiệm vừa mua xong thì  hết nhiệm kỳ về nước, ông Đại sứ mới sang thay nhận thấy ngôi nhà không được ưng ý nên muốn bán đi để mua nhà khác. Tuy nhiên, theo nguyên tắc, trong nước không cho phép bán nhà mới mua. Ngôi nhà này tuy cổ kính, đất vườn rộng, nhưng diện tích sử dụng trong nhà rất hạn chế, bố cục cũng không thích hợp để làm trụ sở; nếu muốn làm, phải cải tạo sửa chữa rất tốn kém. Qua mấy lần đấu thầu, các công ty Đan Mạch đều bỏ giá không dưới 300.000 USD, một số tiền gấp rưỡi giá nhà và đủ để mua một ngôi nhà tốt hơn! Tình thế “tiến thoái lưỡng nan” đó đã khiến ngôi nhà trong suốt hơn 2 năm trời chỉ dùng làm chỗ ở tạm cho 1-2 gia đình nhân viên. Với hệ thống lò sưởi đã cũ nát ngôi nhà càng để lâu càng xuống cấp và có nguy cơ sụp đổ. Điều vô lý là, Sứ quán vẫn phải tiếp tục thuê nhà trụ sở với giá 20.000 USD/tháng (cao hơn gấp đôi so bình thường). 

Đến đầu năm 2007, nhân lúc sắp đáo hạn Hợp đồng thuê nhà, tôi đề nghị một giải pháp cải tạo sửa chữa ngôi nhà theo một cách khác hẳn so với các phương án trước đó. Đề nghị của tôi dựa trên cơ sở các thông tin tại chỗ, đặc biệt từ kinh nghiệm đấu thầu vừa qua . Theo đó, giá thành và thời gian thi công đều được giảm xuống chỉ cần hơn 100.000 USD, thời gian 5 tháng là có thể đưa vào sử dụng. Phương án mới này đảm bảo ngôi nhà sau khi cải tạo sẽ thay thế toàn bộ công năng của ngôi nhà đang thuê, tức là vừa làm trụ sở Sứ quán vừa làm nhà ở của Đại sứ và một gia đình nhân viên. Chỉ có điều là phải sử dụng nhân công Việt kiều làm cả trong và ngoài giờ hành chính, và do đó Sứ quán phải có người trực tiếp kiểm tra, đôn đốc (như Đốc công). Tôi tự nguyện nhận nhiệm vụ Đốc công với điều kiện được tạm thời miễn nhiệm vụ nghiên cứu chính trị-kinh tế trong thời gian Dự án. Ông Đại sứ đã tán thành. Nhưng không hiểu sao càng về sau ông  càng tỏ ra thờ ơ, ít quan tâm, thậm chí "mặc kệ"... Và điều này đã ảnh hưởng đến tinh thần của tập thể Cơ quan, dẫn đến một số trục trặc trong quá trình thực hiện Dự án.   
Sau khi Dự án được trong nước chấp nhận, đã chính thức khởi công vào đầu tháng 3/2007. Nhờ có sự chuẩn bị trước, nhất là trong việc hợp đồng thuê thợ và nguồn cung cấp vật tư, mọi việc đã diễn ra suôn sẻ, chóng vánh. Bản thân tôi thực ra đã nỗ lực “vượt qua chính mình” từ một người chỉ biết ngoại ngữ, để tìm hiểu nắm bắt kiến thức xây dựng đặc thù của Đan Mạch để chỉ huy thợ làm việc đúng yêu cầu kĩ thuật. Do điều kiện Cơ quan mỗi người một việc nên bản thân tôi phải chật vật tự xoay xở mỗi khi có nhiều việc cùng lúc, cả trong và ngoài giờ hành chính. Vào những thời điểm khó khăn  một vài người "nhàn cư vi bất thiện" tung ra lời dèm pha nghi kỵ rằng  tại sao ông Nghị tích cực thế? chắc là có thỏa thuận hay âm mưu gì...?  Dù không lạ gì thói đời này, trong lòng tôi thấy rất bất bình và tự trách mình đã "ôm rơm dậm bụng".... Đáng ra tôi hoàn toàn có thể không cần làm gì cho yên thân, đợi hết nhiệm kỳ về nước "hạ cánh an toàn". Nhưng nghí đi nghĩ lại, tôi quyết không bỏ cuộc. Nhiều hôm tôi phải đến công trường từ sáng sớm hoặc trở về nhà rất muộn tùy theo khả năng bố trí giờ làm thêm của thợ. Khi cần tôi còn "huy động" bà xã bỏ tiền túi ra để chuẩn bị đồ ăn tạm cho thợ bị nhỡ bữa nhằm động viên họ làm nốt công việc. Có thể nói, tôi đã làm việc vô tư với lương tâm vốn có của mình, không hề đòi hỏi bất cứ chế độ đãi ngộ nào.
 
Tòa Đại sứ  VN tại Copenhagen
Kết quả Dự án đã hoàn thành nhanh hơn tiến độ khoảng 1 tháng. Cụ thể vào đầu tháng 5/2007 các hạng mục cải tạo, sửa chữa cơ bản hoàn thành và chính thức khai trương  trụ sở mới của Đại sứ quán với Phòng khách Lãnh sự khang trang thuận tiện hơn chỗ cũ. Căn hộ của gia đình Đại sứ và một gia đình nhân viên cũng lần lượt bàn giao sau đó để tạo điều kiện trả lại nhà thuê đúng hạn vào cuối tháng 6. Kể từ đó, Cơ quan không phải chi trả 20.000 USD mỗi tháng để thuê nhà làm trụ sở nữa, vị chi mỗi năm tiết kiệm được hơn 240.000 USD cho ngân sách. Đó thực sự là  niềm phấn khởi chung của tập thể Sứ quán sau nhiều năm chờ đợi. Chuyến thanh tra tại chỗ của Vụ Quản trị -Tài vụ ngay sau Dự án đã không đưa ra bất cứ một kết luận tiêu cực nào. Và đó là một bằng chứng hùng hồn nhất cho sự thành công. Tuy không được khen thưởng gì nhưng bản thân tôi tin vào việc mình đã làm và cảm thấy tự hào khi nhìn lại trên website Sứ quán hình ảnh tòa Đại sứ Việt Nam với lá cờ đỏ sao vàng tung bay giữa nển trời xanh của Thủ đô Copenhagen. Nó giúp tôi xua tan nỗi lòng trắc ẩn của một nhà ngoại giao bất đắc dĩ phải “làm nghề xây dựng”. Đó không phải là lần đầu, nhưng là lần cuối tôi phải nếm vị đắng của sự dối trá và bất công trong cuộc đời công tác của mình. Đối với tôi đó là một kỷ niệm buồn nhưng không có gì phải ân hận. 


Tìm kiếm Blog này