Hiển thị các bài đăng có nhãn Người Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Người Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 10 tháng 2, 2015

50 năm trở lại Chùa Hương

Hôm nay cùng các cụ hưu trí thuộc CLB cơ quan cũ (Bộ Ngoại giao) đi tham quan Chùa Hương. Đối với mình ngoài mục đích tham quan, có lẽ mục đích lớn hơn là tìm lại một kỷ niệm. Chả là từ hồi còn học cấp I mình được nhà trường tổ chức đi chùa Hương và đó là lần đầu và cũng là lần cuối cùng cho đến nay. Sau này mỗi khii nghe đến chùa Hương mình chỉ hình dung đó là một hang động giữa vùng non nước. Nghe văn thơ âm nhạc, xem hội họa, mình cũng rung động ít nhiều, nhưng có lẽ chưa đến mức lấn át cái cảm giác lo ngại trước cảnh những đoàn người đi trẩy hội "trên bến dưới thuyền" chen chúc xô bồ tranh cướp...Vậy nên đã rất nhiều dịp định đi rồi lại thôi. Gần đây nghe nói việc đi chùa Hương đã được tổ chức tốt hơn và thuận tiện hơn nhờ có cáp treo, mình quyết định đi một chuyến. Dẫu sao, với mình, đây là một trong số những quyết định thận trọng nhất và có lẽ cũng đúng đắn nhất. Vì nó đã giúp giải tỏa tâm trạng lâu nay vốn "không đi không biết Chùa Hương/ Đi rồi mới biết ...."
Đúng là Chùa Hương là một trong những danh lam thắng cảnh tiêu biểu nhất của đất nước cả về không gian và thời gian cũng như các đặc trưng tôn giáo, văn hóa nghệ thuật, tư tưởng,.v.v...Có thể nói ai chưa đến Chùa Hương coi như chưa hiểu biết hết về đất nước và con người Việt Nam vậy.
Nhưng nhờ đi rồi ...mới biết rằng Chùa Hương cho thấy khá đầy đủ mọi nhược điểm vốn có của cái gọi là "nền văn hóa tâm linh" (nếu ai đó muốn đặt tên cho nó) của đất nước này. Chuyện này dài lắm, xin chưa bàn ở đây, chỉ xin nói rằng nó đang đang bị lạm dụng và xuống cấp một cách cấp thảm hại. Không khó để nhận biết qua hình thức bề ngoài với cung cách kiến trúc lai căng "tạp phí lù" cùng những tấm lều bạt căng lên tạm bợ một cách vô thức khắp nơi che khuất cả cảnh quan. Những màu sắc diêm dúa từ trong ra ngoài khiến các ngôi đền chùa mất vẻ tôn nghiêm đáng có của chúng. Đâu đâu cũng thấy hàng quán với rất nhiều kẻ bán hơn người mua cùng với nhiều chiêu trò kiếm tiền cả bên ngoài và bên trong các khu đến chùa khiến khách thăm cảm thấy bất an. Có lẽ ai đã một lần thăm Chùa Hương sẽ không tránh khỏi cảm nhận lẫn lộn giữa thần linh và trần tục, giữa thiện và ác, giữa tốt và xấu, giữa vui và buồn./.

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014

Thoát Trung là thoát cái gì và để làm gì?

Không phải ngẫu nhiên, đúng vào thời gian TQ xâm lược bằng giàn khoan và tàu thuyền bắt đầu từ tháng 1/5 vừa qua người Việt trong nước cũng như  hải ngoại lại dấy lên phong trào "thoát Trung" (còn gọi là "thoát Trung luận"). Nhưng có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Người viết bài này xin mạn phép nêu lên ý kiến cá nhân để góp phần thảo luận. Đó là thoát Trung là thoát khỏi sự hiểu biết nhầm lẫn về nguồn cội của mình từ đó sinh ra tâm thế yếu hèn trước kẻ thù truyền kiếp. Cũng không nên đánh đồng phong trào thoát Trung với "bài Trung" hoặc "chống Trung". Dưới đây là một số cơ sở cho cách suy nghĩ đó. 

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014

Nhân tố Bách Việt trong lập luận chủ quyền biển đảo của Việt Nam

Sau một thời gian khá dài "bán tín bán nghi" đến nay có lẽ toàn thế giới đều biết việc TQ ngang ngược đòi chủ quyền đối với biển Đông mà vốn một phần lớn đã thuộc chủ quyền của các quốc gia ven bờ như VN, Philipin, Malaysia... và  dĩ nhiên cũng có một phần hợp lý của TQ, phần còn lại thuộc vùng biển quốc tế, theo đúng Công ước Luật Biển 1982. 

Thế giới cũng nhận biết cơ sở đòi hỏi chủ quyền của TQ chỉ là một bản vẽ tay ngẫu hứng của một viên sĩ quan của chính quyền Tưởng Giới Thạch vào thời kỳ sắp sụp đổ. Bản vẽ đó lúc thì gồm 10 đoạn, lúc 9 đoạn tạo thành một đường cong chấm phá giống như cái lưỡi bò nên còn được gọi là "đường lưỡi bò" áp sát bờ biển các nước quanh biển Đông.  Chỉ từ năm 2009 nhà cầm quyền Bắc Kinh mới công bố "đường lưỡi bò" và rêu rao "TQ có đầy đủ chứng cứ lịch sử" để đòi chủ quyền đối với toàn bộ biển Đông, nhưng thực ra họ không bao giờ chứng minh được bằng chứng lịch sử  đó là gì. Và lập luận này đã bị thế giới bác bỏ ngay từ đầu. Nó hài hước đến mức Thủ tướng Đức Angela Merkel  mới đây đã "chơi khăm" tặng người đứng đầu TQ-Tập Cận Bình một tấm bản đồ cổ chính hiệu trong đó chỉ vẽ biên giới cuối cùng của TQ  đến hết đảo Hải Nam. Nghe nói ông Tập cay cú lắm, nhưng đành phải nhận để rồi ngay sau đó đã cho người tráo đổi bằng một tấm bản đồ giả hiệu khác. Tráo đổi bản đồ là một thủ đoạn xâm lược sở trường của TQ mà!

Vô lý là vậy. Nhưng mối hiểm họa đối với khu vực và thế giới cũng bắt đầu từ khi TQ không ngừng leo thang các hành động bạo lực để lấn chiếm biển đảo của các nước láng giềng nhằm hiện thực hóa đòi hỏi chủ quyền vô lý của họ. Người dân TQ đã được chính quyền của họ rắp tâm nhồi sọ bằng những kiến thức lịch sử và địa- chính trị-kinh tế bị bóp méo trong nhiều thập kỷ trước nhằm mục đích lâu dài sau này. 

Bản đồ tính minh họa nước Xích Quỹ của Kinh Dương Vương thời tiền sử (nguồn Interrnet)

"Bản đồ dọc" do TQ mới công bố gồm cả "đường lưỡi bò"

Tuynhiên, may thay, không phải tất cả người TQ đều tin vào những kiến thức nhồi sọ đó. Tuy không nhiều lắm, nhưng vẫn luôn có những người TQ thuộc giới trí thức và các tầng lớp xã hội khác hiểu đúng và dám lên tiếng  phê phán bóc trần thủ đoạn bịa đặt lịch sử của giới cầm quyền đất nước họ. Trong số đó, mới đây có học giả Lê Oa Đằng - chủ nhân của một trang Blog có hơn 4.039.130 người đọc đã đăng một bài viết nhan đề “Nam Hải từ xưa đến nay là của Trung Quốc ư?” Xem thêm tại đây

Điều đáng chú ý là, ngoài những lập luận bác bỏ ta từng nghe, ông Lê Oa Đằng đã nêu lên nhân tố Bách Việt là tộc người đầu tiên phát hiện và làm chủ biển Đông, và theo ông "Việt Nam ngày nay là quốc gia duy nhất được xây dựng bởi chủ thể là các hậu duệ của tộc người Bách Việt".

Để lý giải điều này học giả Lê Oa Đằng bắt đầu bằng câu hỏi: "Trung Quốc có thực sự có chủ quyền “không thể tranh cãi” đối với Nam Hải hay không? Và cũng theo ông, hãy để sự thật lên tiếng. Trung Quốc thực tế đã “phát hiện” Nam Hải từ triều Hán; nhưng Nam Hải không phải do người Trung Quốc phát hiện sớm nhất, mãi đến đời Tần Trung Quốc mới đến Nam Hải; còn trước đó từ rất lâu, tộc người Bách Việt sinh sống ở vùng Quảng Đông và bán đảo Đông Dương đã sinh sống ven Nam Hải". Và ông kết luận: "Nếu nói ai “phát hiện” ra Nam Hải thì người Việt Nam có tư cách hơn chúng ta, vì họ là hậu duệ trực hệ của người Bách Việt, và cũng là quốc gia duy nhất được xây dựng bởi chủ thể là các hậu duệ của tộc người Bách Việt"

Toàn bộ bài viết của học giả này được dẫn chứng bằng những dữ liệu tìm thấy trong sử sách Trung Quốc, nhưng ông lần lượt bác bỏ cách lập luận "vơ vào" của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Ví dụ, ông cho rằng  từ đời Tống trở về trước đều “rất khó xác định người Trung Quốc đã biết đến Tây Sa (Hoàng Sa), chứ đừng nói tới Nam Sa (Trường Sa). Ví dụ sách “Dị vật chí” đời Đông Hán mà Trung Quốc hay nhắc tới niên đại, thì thực ra nó được viết vào đời nhà Ngô sau này. 

Ở một đoạn khác ông lập luận: Chính phủ Trung Quốc cho rằng Trướng Hải chính là Nam Hải, Kỳ Đầu chính là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phán đoán đó đã phạm sai lầm tối thiểu về mặt lô-gic “lấy cá thể thay cho tổng thể”. Mấy chữ đó không thể chứng minh được những địa danh đó ở nơi nào, cũng chẳng có bài viết nào của Trung Quốc chỉ ra rằng chúng ở đâu. Theo ông, sự thật là, những ghi chép đầu tiên giúp xác định Tây Sa (Hoàng Sa) lại do người Chiêm Thành cung cấp. Theo ghi chép trong sách “Tống hội yếu”, năm 1018, sứ giả Champa đi sứ Trung Quốc có nói (dịch nghĩa): “Chúng tôi đến Quảng Châu, thuyền bị gió thổi trôi đến Thạch Đường, đi mãi mới đến được đây. Thạch Đường trên biển cách Nhai Châu 700 dặm, chìm dưới nước 8-9 thước”. Qua miêu tả cho thấy, Thạch Đường chính là quần đảo Hoàng Sa. Do đoạn văn tự này do người Trung Quốc ghi lại, nên các chuyên gia Trung Quốc liền cho rằng đó là một chứng cứ lịch sử cho thấy Hoàng Sa là của Trung Quốc, nhưng họ cố tình không chịu hiểu là: phía Trung Quốc chỉ là người ghi chép lại, còn người Chiêm Thành mới là bên cung cấp thông tin, sự việc được ghi lại chính là: người Chiêm Thành đã đến quần đảo Hoàng Sa.


Chính vì vậy, nếu lấy ghi chép trong sử liệu làm chuẩn, người Chiêm Thành phát hiện ra Hoàng Sa sớm nhất, Vương quốc Champa là một bộ phận của Việt Nam ngày nay. Xét về quan hệ kế thừa chủ quyền, chính người Việt Nam chứ không phải Trung Quốc đã phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa đầu tiên.

Lê Oa Đằng khẳng định, theo sử sách của chính mình, người Trung Quốc biết đến Trường Sa còn muộn hơn nhiều. Ông dẫn lại những ghi chép trong Quyển 197, sách “Tống hội yếu”, có chép lại sự kiện ngày 20 tháng 7 năm Gia Định thứ 9 (1209), có sứ giả nước Chanlifu (Chanthaburi ở Đông Nam Thái Lan ngày nay) đến thăm. Sứ giả này đã kể lại với các quan chức nhà Tống việc từ nước mình sang tới đây phải qua Chiêm Thành, sắp đến Giao Chỉ thì bị gió lớn thổi dạt đến “Vạn Lý Thạch Đường” nước chỗ nông chỗ sâu, nhiều đảo bãi, thuyền lật chết đuối mười mấy người; may có gió Đông Nam vượt qua được Giao Chỉ, đi 4-5 ngày nữa mới đến được Khâm Châu, Liêm Châu. Đoạn văn này chỉ ghi lại sự việc, chẳng nói ai phát hiện ra “Vạn Lý Thạch Đường” theo phỏng đoán là quần đảo Trường Sa.


Theo Lê Oa Đằng, Trung Quốc luôn nhấn mạnh bắt đầu từ đời nhà Tống đã quy Hoàng Sa và Trường Sa vào Vạn Châu. Chứng cứ là các địa phương chí có ghi “Vạn Châu có biển Trường Sa và biển Thạch Đường”, nhưng chỉ cần đọc hoàn chỉnh cả câu thì thấy ngay cách nói đó không đáng tin cậy. “Thực ra, hoạt động của các quốc gia khác ven Nam Hải có lịch sử rất lâu đời. Người Chiêm Thành, nay thuộc Việt Nam biết đến Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) rất sớm, thậm chí có thể là những người phát hiện ra chúng. Việt Nam có chứng cứ đã quản trị Tây Sa (Hoàng Sa) từ đầu thế kỷ 18, thậm chí đã được quốc tế thừa nhận. Trái lại, Trung Quốc chả có chứng cứ gì về mặt này”. 

Là chủ trang blog Bách Việt, tôi thấy tâm đắc với ý kiến của học giả người Trung Quốc chính hiệu này vì lẽ: Mặc dù bị  các triều đại thống trị Trung Quốc ra sức tẩy xóa bằng chính sách đồng hóa liên tục suốt mấy ngàn năm nay nhưng khái niệm Bách Việt vẫn còn đó rất rõ trong tiềm thức nhân dân TQ. Vậy thì cớ sao người Việt Nam lại "quên" đi (dù là vô tình hay hữu ý) khái niệm Bách Việt trong cả sử sách giáo khoa và trong nhận thức của mỗi người?  Sao chúng ta không lắng nghe những người TQ như học giả Lê Oa Đằng để hiểu thêm về nguồn cội của dân tộc Việt Nam với tư cách là "quốc gia duy nhất được xây dựng bởi chủ thể là các hậu duệ của tộc người Bách Việt" như học giả Lê Oa Đằng đã nói? 
   
Mong thay, không chỉ nhân dân, mà quan trọng hơn là giới sử gia và giới lãnh đạo đất nước hãy lưu tâm đến vấn đề nguồn cội Bách Việt với một cách nhìn đúng đắn: Nguồn cội là cái gốc, vì nếu một dân tộc không biết mình thực sự là ai thì không thể tồn tại và phát triển lành mạnh bền vững lâu dài được. Rất nhiều người VN ngày nay vẫn tưởng mình là "từ người TQ mà ra". Nhưng đó là một quan niệm hời hợt mang nặng ảnh hưởng của thời ngàn năm Bắc thuộc. Thiết nghĩ đã đến lúc cần chấn chỉnh lại công tác học thuật theo hướng tôn trọng sự thật lịch sử, trong đó có lịch sử Bách Việt trong quá trình hình thành và phát triển của hai quốc gia TQ và VN đồng thời nhìn nhận đúng thực chất về sự giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc Hán và Việt, coi đó là cơ sở để xây dựng mối quan hệ thật sự bình đẳng giữa hai nước. 

Riêng về lập luận chủ quyền biển đảo của VN, nhân tố cội nguồn Bách Việt cần được tính đến. Để làm điều này, cần tập trung đi sâu nghiên cứu, khai thác và vận dụng mọi dữ liệu lịch sử, khảo cổ và nhân chủng học mà thế giới đã đúc kết về Bách Việt. Trong số đó, cần khẳng định lại nhà nước Nam Việt của Triệu Đà là một trong các triều đại "tiền bối" của VN như đã được các triều đại trước thời hậu Lê công nhận. Điều này cũng phù hợp với tiến trình lịch sử dân tộc ta từ thời Kinh Dương Vương. Về chủ đề này bạn đọc có thể tham khảo thêm tại đây: http://vi.wikipedia.org/wiki/.   

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Đôi lời nhân chuyện báo chí TQ gọi Việt Nam là "đứa con đi hoang"

Ghi chú của tác giả: Sau khi viết bài này, tôi tình cờ phát hiện cụm từ "đứa con đi hoang" có thể vì một lý do nào đó đã bị dịch sai lệch từ tiếng Trung sang tiếng Anh (cụ thể là "lãng tử quay đầu" thành "đứa con hoang đàng"). Tuy nhiên, sau khi truy tìm trên mạng tôi không hề thấy bản dịch tiếng Anh trên phiên bản tiếng  Anh của tờ Hoàn Cầu như vốn dĩ vẫn thế (trừ trường hợp nó được gỡ bỏ có chủ ý) cũng không thấy ai cải chính, và vẫn thấy cư dân mạng TQ phê phán giới ngoại giao và báo chí TQ đã đưa ra từ "đứa con hoang đàng". Như vậy rất có thể từ này là có thật như đã được phóng viên phương Tây trích đăng. Do đó tôi quyết định vẫn giữ nguyên bài viết đồng thời cũng mong bạn đọc lượng thứ nếu có gì bất tiện. Xin cảm ơn.   

Nhân chuyến đi Việt Nam của Dương Khiết Trì ngày 18/6, báo chí TQ đã lập tức xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn nhằm đổi trắng thay đen và bôi nhọ VN.  Đây không phải lần đầu mà là một món nghề gia truyền của TQ vì họ nghĩ mình là nước lớn đông dân thì cứ to mồm nói càn thì có thể biến không thành có, biến sai thành đúng...

Người Việt lâu nay đã biết quá rõ và thế giới cũng đang nhận ra tật xấu này của TQ. Nhưng riêng việc báo giới TQ kêu gọi "đứa con đi hoang (prodigal son) trở về nhà" (1) thì thật nực cười. Nó cho thấy tình trạng bệnh hoạn và thái độ láo xược ngông cuồng của chủ nghĩa bành trướng bá quyền đại Hán một lần nữa lại xúc phạm tình cảm của 90 triệu nhân dân VN và bản thân nhân dân TQ. Xin bảo thẳng vào mặt bọn họ một câu trước đã: Không có chuyện nước lớn nước nhỏ, lại càng không có chuyện nước cha mẹ, nước con cái và ai về với ai ở đây!
Các tên và vị trí  trong bản đồ này chỉ mang tính minh họa 
Nói vậy là vì, bất cứ ai nghiên cứu lịch sử cổ đại TQ đều biết trên đất Trung Quốc ngày nay đã có hàng trăm tộc người Việt (sử TQ chép là "Bách Việt") cư trú trên khắp miền đất phía Nam sông Dương Tử, chính xác là phía Bắc giáp sông Dương Tử, phía Nam đến miền Bắc VN ngày nay, phía Tây giáp Tây Tạng, phía Đông Giáp biển Thái Bình Dương.  Cách nay khoảng 5.000 năm trong quá trình hình thành và phát triển quốc gia, người Hán đã tràn xuống phía nam xâm lấn đất đai của người Bách Việt. Tuy không đầy đủ nhưng sử sách và truyền thuyết của cả TQ và VN đều cho thấy thực tế lịch sử này, trong đó nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn có thể được coi là một ví dụ. 

Trường hợp Việt Nam cho thấy sau nhiều thời kỳ bị xâm lấn, các vương quốc Bách Việt lần lượt bị chinh phục, rồi bị đồng hóa với các mức độ và tốc độ khác nhau bởi Hán tộc; đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên thì vương quốc Văn Lang (Lạc Việt) một phần bị thôn tính, một phần bị đẩy xuống phía nam và trụ lại với tên gọi Âu Việt của An Dương Vương, sau đó là Nam Việt của Triệu Đà  trước khi bị các triều đại Hán tộc chinh phục hoàn toàn và thống trị trong thời gian dài được sử sách gọi là "ngàn năm Bắc thuộc". 

Vì nhiều lý do khác nhau, trong đó lý do chính là ý đồ xuyên tạc và tráo đổi sự thật lịch sử của các triều đại TQ, phần tiền sử của dân tộc Việt Nam ngày nay chỉ còn biết đến qua truyền thuyết về các Vua Hùng và Âu Cơ Lạc Long Quân. Tuy nhiên, khác với các vương quốc Bách Việt khác, Việt Nam sau thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc đã không bị đồng hóa mà vẫn trụ vững với bản sắc Việt của mình. Và đây là quốc gia dân tộc độc lập còn lại duy nhất của Bách Việt. Đây cũng là thành quả chung của Bách Việt vì trong thời kỳ nào cũng có nhiều thế hệ người gốc Bách Việt (kể cả những quan lại do Vương triều cử đến VN) đã chọn cách hội tụ tại vùng đất này để lập quốc nhằm giữ gìn cốt cách và bản sắc văn hóa của người Việt. 
Vẫn biết hiện tượng xâm lấn, chiếm đoạt đất đai và đồng hóa dân tộc đưa đến sự thịnh hoặc suy của các quốc gia trên thế giới là lẽ đương nhiên, kể cả trường hợp giữa Hán tộc và Việt tộc. Nhưng nếu cố tình xuyên tạc, tráo đổi sự thật lịch sử là một tội ác trước nhân loại. Trên thực tế, giới cầm quyền TQ thời nào cũng vi phạm tội ác này. Họ không bao giờ chịu thừa nhận thực tế là các tộc người Bách Việt chiếm phân nửa dân số của TQ ngày nay và chính người Hán đã thừa hưởng kho tàng giá trị nhân văn vô giá của người Bách Việt để có nền văn minh TQ hiện đại. Họ cũng che dấu thực tế bên trong nước TQ ngày nay chưa hẳn đã hoàn toàn ổn định trước trào lưu đòi tự trị hoặc độc lập của các tộc người không phải Hán tộc như Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, người Tạng ở Tây Tạng, và một số dân tộc thiểu số gốc gác Bách Việt ở miền nam; trường hợp Đài Loan là khá rõ ràng với đa số Mân Việt  và người bản địa Đài Loan. Những kẻ có đầu óc đại Hán nếu thích thì có thể coi các phong trào ly khai như những "đứa con hoang đàng", nhưng dứt khoát không thể sử dụng từ đó đối với VN một quốc gia độc lập ngang hàng với TQ về mọi mặt.    
Chỉ có những kẻ bất chấp sự thật mới dám gọi Việt Nam là "đứa con hoang đàng"(của TQ). Đó là cách gọi vô lối xấc xược mà chỉ những kẻ tư tưởng dân tộc bá quyền nước lớn mới sử dụng, nếu không được ngăn chặn sẽ trở thành chủ nghĩa phát xít chưa biết chừng. Nếu còn chút liêm sỉ họ nên biết trân trọng giữ gìn những mặt tốt đẹp của quá trình giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc Việt- Hán, biết tôn trọng mối quan hệ bình đẳng giữa hai quốc gia có chủ quyền. Nếu làm ngược lại điều này họ sớm muộn sẽ đẩy quan hệ hai nước vào vòng xoáy của bạo lực, và TQ không thể tránh khỏi thất bại, thậm chí tan rã như đã từng thấy trong lịch sử.  

Ghi chú của tác giả: Sau khi viết bài này, tôi tình cờ phát hiện cụm từ "đứa con đi hoang" có thể vì một lý do nào đó đã bị dịch sai lệch từ tiếng Trung sang tiếng Anh (cụ thể là "lãng tử quay đầu" thành "đứa con hoang đàng"). Tuy nhiên, sau khi truy tìm trên mạng tôi không hề thấy bản dịch tiếng Anh trên phiên bản tiếng  Anh của tờ Hoàn Cầu như vốn dĩ vẫn thế (trừ trường hợp nó được gỡ bỏ có chủ ý) cũng không thấy ai cải chính, và vẫn thấy cư dân mạng TQ phê phán giới ngoại giao và báo chí TQ đã đưa ra từ "đứa con hoang đàng". Như vậy rất có thể từ này là có thật như đã được phóng viên phương Tây trích đăng. Do đó tôi quyết định vẫn giữ nguyên bài viết đồng thời cũng mong bạn đọc lượng thứ nếu có gì bất tiện.    

Dưới đây là trích đoạn nguyên văn tiếng Anh bài báo trên Tạp chí Diplomat:

" The tone of these articles painted Yang as something like a patient teacher sent to deal with a particularly recalcitrant student. This attitude was most evident in the nationalistic media outlet Huanqiu (the Chinese-language counterpart of Global Times). Huanqiu characterized Yang’s visit as a gift from China, offering Vietnam yet another chance to “rein itself in before it’s too late.” Yang’s function in Hanoi was to “clarify the bottom line and the pros and cons” of the situation. In talking with Vietnam, Huanqiu said, China was “urging the ‘prodigal son to return home.’” Based on this interpretation, it seems that Yang was not in Hanoi for a real dialogue, but simply to deliver a lecture."


Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Quyền, Tiền và Tổ quốc

Hôm qua đọc báo mạng tình cờ bắt gặp lời bình của một người TQ về việc VN sắp cho phép mở sòng bạc, đại ý thế này: VN giờ lại cho mở sòng bạc thì coi như chấm hết, vì theo anh ta, phát triển kinh tế bằng sòng bạc là lợi bất cập hại. Đọc lời bình đó khiến mình có cảm giác vui vui: Thì ra giữa lúc TQ xâm lấn biển đảo VN mà cũng có người TQ biết lo toan cho vận mệnh của VN hơn cả người VN! 
Một bè nuôi cá của người TQ tại cảng Cam Ranh 
Hôm nay tình cờ gặp chú em vừa từ miền Trung ra Hà Nội công tác, qua chuyện trò mình lại nghe một chuyện sốt dẻo đại ý thế này. Tại một cuộc họp các ban ngành của thành phố (xin miễn nói tên) bàn về việc cấp phép đầu tư nước ngoài đối với vùng ven biển thuộc thẩm quyền của tỉnh. Khi chú em nêu ý kiến không nên cấp phép cho nhà đầu tư Trung Quốc (lục địa)... thì một vài vị khác lắc đầu: "Đồng chí này thật là..., giữa lúc ta đang cần tiền, người ta đem tiền đến cho, sao lại từ chối?". Tất nhiên kết luận của cuộc họp là theo hướng của những người có quyền. 

Thật ra đã có rất nhiều hội thảo, họp hành cấp thấp, cấp cao tốn rất nhiều thời gian giấy mực xung quanh chủ đề sử dụng các nguồn lực và đầu tư như thế nào...  Ai cũng biết, chỉ còn 6 năm để VN phấn đấu trở thành nước công nghiệp. Vậy mà đến giờ phút này cái đinh vít vẫn phải nhập khẩu. Trong khi đó nguồn vốn khan hiếm của đất nước vẫn tiếp tục đổ vào các ngành dịch vụ như du lịch, sân golf, resorts, nhà hàng, khách sạn...và sắp tới đây là sòng bạc. Đồng thời cũng có nhiều tin tức thất thiệt về các vụ người TQ đầu tư vào các vùng xung yếu về an ninh quốc phòng trên khắp các vùng miền của đất nước ta từ biên giới đến Tây Nguyên xuống đồng bằng Nam Bộ, đặc biệt dọc bờ biển chiến lược của miền Trung. Thật không thể hiểu nổi!

Nạn bùn đỏ đang hiện hữu từ Dự án Bauxit trên Tây Nguyên 
Trên đây chỉ là hai trường hợp thông tin nhỏ lẻ mà người viết bài này tình cờ bắt gặp, nhưng điều thú vị là nó cho thấy hai cách nhìn của hai người thuộc hai đất nước khác nhau, thậm chí đang xung đột với nhau, về một chủ đề rất hệ trọng của VN, đó là vai trò của chính quyền nhà nước đối với vận mệnh của đất nước. Phải chăng VN đang có xu hướng sai lầm trong đường lối chung cũng như trong chủ trương chính sách cụ thể liên quan chiến lược phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng? Vậy sai lầm đó bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cương vị khác nhau từ trung ương xuống địa phương? Đừng nói đó chỉ là sai lầm do "nhận thức yếu kém" của "một bộ phận" cán bộ nhé, bởi vì hầu hết họ đều được học hành đến nơi đến chốn, thậm chí có học vị tiến sĩ phó tiến sĩ mà dư luận nói đùa là "như lợn con ấy"! Ắt hẳn phải có một lý do khác, đó là động cơ kiếm tiền. Có trời mới biết họ kiếm tiền cho đất nước hay cho bản thân, hoặc nhập nhằng cả hai khi mà đụng vào đâu cũng thấy tham nhũng, cũng bắt được "sâu" như cách nói hình tượng của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. 

Vẫn biết quyền lực, tiền tài và tai vạ thường đi liền với nhau. Nhưng xin lưu ý những kẻ có quyền dù ham kiếm tiền bất chấp tại vạ cho bản thân, nhưng không được phép gây tai họa cho tổ quốc. Câu hỏi đặt ra là, liệu vận mệnh tổ quốc VN sẽ đi về đâu với ngày càng nhiều những sai lầm từ nhỏ đến lớn nhưng không mấy sai lầm được làm sáng tỏ? 

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

Tại sao có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt Nam và người Nhật Bản? (*)

(*) Bài viết của tác giả Phạm Hoài Nam đăng tại Đàn Chim Việt, ảnh minh họa của chủ blog tôi mới chụp trong chuyến du lịch Nhật Bản gần đây).

Đi bộ từ ga tàu điện đến nơi làm việc là cảnh tượng phổ biến

Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới. Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ quá) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.

Kể từ đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu Thái Dương Thần Nữ.

Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2014

Không có cái gọi là “Từ Hán Việt”?

 Đó là tiêu đề bài viết của tác giả Hà Văn Thùy - người được biết luôn trăn trở về  nguồn cội của dân tộc Việt Nam-  được đăng tải trên một số trang mạng trong thời gian gần đây. Chủ Blog Bách Việt xin tạm miễn bình luận về nội dung, chỉ mạn phép đăng lại bài viết khá công phu này của tác giả với một dấu hỏi (?). Hy vọng với  loạt bài cùng chủ đề của các tác giả khác nhau đã, đang và sẽ được đăng trên trang Bách Việt, bài viết của ông Hà Văn Thùy cung cấp thêm một cách nhìn về nguồn cội dân tộc và ngôn ngữ Việt Nam mà đến nay vẫn tồn đọng những góc khuất chưa được giải mã.  Dưới đây là nguyên văn nội dung bài viết ( Chủ Blog Bách Việt)
Trên trang mạng Bách Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài “Di sản Hán Việt”  http://trankinhnghi.blogspot.com/2013/11/di-san-han-viet.html. Sau khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt, ông cho rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa hoặc thoái hóa.” Kết thúc bài viết, ông đề nghị Nhà nước có biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.

I. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán?


Muốn giải quyết thỏa đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới tận cùng cội nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người Trung Hoa.

Nửa sau thế kỷ XIX, ngay khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Vệt Nam, những học giả người Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con người, văn hóa, xã hội xứ Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà nước bảo hộ Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội. Đứng đầu lĩnh vực khoa học nhân văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L. Maspéro… Là học giả phương Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của châu Á. Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri thức sai lầm đương thời cho rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung Quốc rồi sau đó xuống Việt Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng từ Trung Hoa lan tỏa tới phương Nam. Khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam, họ có trong tay những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải, Tứ khố toàn thư, Khang Hy… Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển Việt-Bồ-La của Alexander de Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ, tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: “Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!”
Sự thật có đúng như vậy không?
Vào năm 1898, H. Frey, một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau đó có mặt ở Việt Nam, đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L’Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông Dương. Bằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông. Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình. Tuy nhiên, các viện sĩ của Viễn Đông Bác Cổ “không thèm chấp” gã tay ngang võ biền. Không chỉ vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu của mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục phần thắng thuộc về bậc lão làng!

Kết luận của Viện Viễn Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt không chỉ vào văn hóa mà cả vào tương lai dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm này mà sau đó, khi phân loại ngôn ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ Annam bị bãi bỏ do “không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!” Thay vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer. Kết quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học hàng đầu thế giới vẫn viết “Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa (!)” Dù sao thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số chúng ta tự nhận!

Điều khủng khiếp nhất là, vào thập niên 1920, các học giả tiên phong người Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố… tiếp nhận tri thức sai lầm đó, dạy cho con dân Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập niên 80, trong công trình ngữ học công phu Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn “khám phá”: ngoài cái gọi là “từ Hán Việt”, trong tiếng Việt còn lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1). Không đưa ra con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ sung đó, có lẽ tỷ trọng vay mượn của tiếng Việt còn tăng lên gấp bội!

Nhưng dù sao, đấy chỉ là tính toán của nhà bác học, còn với người dân Việt, ít người tin, chỉ vì lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn đến bằng nấy tiếng nước ngoài không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị đồng hóa sau nghìn năm nô lệ!

Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2). Rất may là ý tưởng “điên rồ” đó chẳng những không bị ném đá mà còn không rơi vào im lặng. Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm…(3) trong đó dẫn ra hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy, tiếng nói nguyên thủy của người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt Triều Châu của tôi khẳng định: “Tất cả các chữ tượng hình được làm ra là để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông chỉ khi đọc và giải nghĩa bằng tiếng Việt mới chính xác!” Một sự ủng hộ vô giá! Càng may hơn là đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống với chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc, chúng tôi nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa (5)!

Như vậy, sang thế kỷ này, nhờ tiến bộ của khoa học thế giới, nhờ tấm lòng và công sức của cộng đồng người Việt, không những chúng ta xác định được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà cả chữ viết.

Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau:

Nhiều dữ liệu khoa học cho thấy, 40.000 năm trước, người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều Hoàng Đế. Trong vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói Việt. Do ngôn ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng nói vương triều. Cùng với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội, đã áp đặt dân chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance: tính từ đứng trước danh từ, hay như ta vẫn gọi là cách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư vương triều Hoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ. Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị kiêm tính cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên địa bàn rộng với thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly thành nhiều phương ngữ. Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông), Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi nhà Hán, triều đình khuyến khích nói theo Nhã ngữ.

Vấn đề khác cũng cần minh định là ảnh hưởng của chữ viết tới sự hình thành ngôn ngữ phương Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm nhất ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước. Khảo cổ học cũng cho thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được khắc trên xẻng đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó được đưa lên đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một trung tâm lớn của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa, về sau được gọi là văn Giáp cốt.

Chữ viết trên yếm rùa và xương thú là chữ đơn lập, không thể ghép vần. Tiếng Việt cổ vốn đa âm nên muốn được ký âm buộc phải đơn âm hóa. Do đó, tại trung tâm đầu não của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng Tây tới Hà Nam, tiếng nói chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh: tiếng nói thì nhiều nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng tiêu biểu mới được ký tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những tiếng nói tiêu biểu nhất của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn ra trong cộng đồng Việt mà người Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời Thương không biết. Khi vua Bàn Canh chiếm đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384 TCN), mới biết chữ Giáp cốt của người Dương Việt. Với nhà nước được tổ chức tốt, Bàn Canh đã tiếp thu và cải tiến chữ của người Việt để ghi việc bói toán, cúng tế cùng địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình nhà Ân, những “họa sư”- người vẽ chữ, “bốc sư”- thày bói, người Việt, được “lưu dụng” làm công việc này. Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết chữ trên thẻ tre, trên lụa, cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà Tần vốn là bộ lạc người Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt thành chữ Triện tồn tại tới nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo ra chữ Giáp cốt mà người Việt còn tích cực góp phần cải tiến, hoàn thiện chữ viết. Do đó quá trình đơn âm hóa tiếng nói được đẩy mạnh.

Sau đời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người thiểu số phía Tây thâm nhập, khiến cho tiếng nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường giọng điệu du mục. Tiếng nói của cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc người trong nước không hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều dùng tiếng nói của kinh đô làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan thoại ra đời. Nhà Đường lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói chính thức, được gọi là Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người Tràng An nói thời nhà Đường. Đấy là bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được ký tự bằng chữ vuông. Đường âm được mang sang dạy và giao dịch ở Việt Nam. Khi giành được quyền tự chủ, nước ta thoát ách đô hộ của phương Bắc về chính trị, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng hình vẫn là chữ viết chính thống và Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Trong khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự thay đổi của vương triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh là tiếng nói chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người dùng. Nhà Mãn Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc thống nhất ngôn ngữ. Chỉ tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa nỗ lực thực hiện cuộc đồng hóa khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ sóng trên phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, tới nay trong vùng Nam Dương Tử vẫn có khoảng 20% từ địa phương, truyền miệng trong dân gian mà không được ký tự.

Một vấn đề từ lâu được đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở nước ta từ bao giờ? Chưa ai xác định được ! Chúng tôi không biết, hàng nghìn năm trong nước Văn Lang, vùng đất bây giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý Châu khoảng 150 km, có sử dụng chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di duệ của người Lạc Việt ở Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu số hóa, vẫn giữ được sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn của tổ tiên Bách Việt, gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa thạch sống, một bảo vật văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là, muộn nhất, chữ Nho có mặt ở nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu với rất nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ điều này. Chắc chắn rằng, trong 100 năm xây dựng và bảo vệ Nam Việt, nhà Triệu đã dùng chữ Nho trong hành chính, luật pháp và dạy học. Vì vậy, khi sang nước ta, Mã Viện phát hiện “Luật Giao Chỉ có tới 10 điều khác luật nhà Hán”(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ Nho. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với việc phổ biến chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm.

Một câu hỏi: khi sang nước ta, người của Triệu Đà rồi quan quân nhà Hán nói tiếng gi? Sử ký viết, “Đà giết trưởng lại người Tần rồi đưa người của mình lên thay.” Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu Đà và tâm phúc của ông là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp tiếng Việt Quảng Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực. Thời Hán cũng tương tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người phương Bắc thì tới nước ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người Việt, cho dù có nói ngược theo cách nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì lẽ đó, rất có thể hai bên gần như hiểu được nhau. Vì vậy, việc học chữ Nho khá dễ dàng.

Về sau, qua mỗi thời đại, tiếng của quan quân phương Bắc lại khác đi. Đến thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An được dùng làm quan thoại. Thực chất, đó là tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều này cho thấy một bộ phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa âm, không thanh điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng nói của bộ phận cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa như vậy?

Sau thời Đường, nước ta độc lập, chữ Nho trở thành quốc ngữ. Theo dòng thời cuộc, tiếng nói của người Trung Hoa thay đổi, ngày càng xa gốc Việt. Chẳng những người Việt không hiểu tiếng người phương Bắc mà người Trung Quốc cũng không còn nói được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ còn người Việt Nam thưởng thức trong âm điệu tuyệt vời.

Từ phân tích trên chứng tỏ rằng, tiếng Việt không những không vay mượn mà trái lại, còn là gốc gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa. Cái mà nay người ta quen gọi là “từ Hán Việt” là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội nguồn sinh học cũng như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết.


II. Vai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa dân tộc

Như đã nói ở trên, tiếng thì nhiều nhưng chữ làm ra quá ít nên tổ tiên ta bắt buộc phải chọn thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là những tiếng có nội dung sâu sắc, hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi là ngôn ngữ hàn lâm. Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng còn vô số tiếng không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần những tiếng không được ký tự bị mai một.

Trong khi đó, ở miền nam, chúng trở thành từ địa phương, được truyền miệng trong dân gian. Ở Việt Nam tình hình tương tự. Khi làm chủ đất nước, người Việt thấy quá nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần đã mô phỏng chữ Nho để tạo ra chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không được coi là văn tự chính thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng chữ Nho, nên nhiều địa danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả kháng ngày xưa khiến nay nhiều người bức thúc.

Một vấn đề cũng cần bàn cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi xác đáng cho lớp từ đặc biệt này. Thoạt kỳ thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó được gọi là chữ Nho. Ở miền Nam cho tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên 1960, các học giả miền Bắc gọi là “từ Hán Việt”. Một thời gian dài nửa thế kỷ ta chấp nhận tên gọi đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm “từ Hán Việt” lại mâu thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của Hán, còn cách đọc của Việt, ghép lại thành “từ Hán Việt.” Nhưng như phát hiện của Nguyễn Tài Cẩn, cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường! Như vậy, theo cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và cách đọc đều của người Hán, nên không thể là “từ Hán Việt!”. Nay ta thấy không thể tiếp tục dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng dùng tên nào thích hợp hơn?

Đường âm là đúng nhưng bây giờ không thể trở lại tên gọi này vì đó là sản phẩm của một thời điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó không phải là tiếng nói thời nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung Hoa hôm nay. Có lẽ tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có nghĩa là chữ của nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim Định, là sản phẩm của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là “từ Hán Việt” vì người ta lầm tưởng đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy nhiên cách hiểu như thế vừa không chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng lên tâm trí chúng ta một cảm giác lệ thuộc bên ngoài. Thực chất, đó không phải “từ Hán Việt” mà là tiếng Việt cổ. Khác với nhiều ngữ khác, tiếng cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt cổ vô cùng sống động. Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có biến động lớn, chữ Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác. Mấy trăm năm trước, khi chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một học giả phương Tây từng nói đại ý: Chúng ta trao cho người Annam một thứ chữ dễ học, giúp họ nhanh chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho thế hệ tương lai của họ cắt đứt với nguồn cội. Hôm nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với toàn bộ nền văn hóa Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu tiếng nói của tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất.

III. Kết luận

Hàng ngàn năm nay do ngộ nhận nên ta cho rằng, bộ phận tinh hoa, quan trọng nhất của tiếng Việt là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo nên nỗi đau ngàn năm khi ta vừa căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù dùng để đồng hóa, nô lệ mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng nhưng rồi mỗi khi dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn!

Nay chúng ta phát hiện ra sự thật: không hề có cái gọi là “Từ Hán Việt”! Đó chính là chữ Việt, tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo trong quá khứ. Việc khẳng định bản quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc biệt, nó giúp ta tự tin, làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay là tuyên truyền để mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là nghiên cứu sử dụng vốn tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây dựng văn hóa dân tộc.

Cái to nhất ngăn trở ta dám nhận lại tài sản vô giá này là thói nô lệ, thói tự kỷ ám thị nặng nề khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản quý báu của tổ tiên cho người ngoài để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị đè bẹp dưới cái bóng hoang tưởng!

Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản vô giá này?

Nhiều người đã hiểu cơ sự nên kiến nghị khôi phục việc học chữ Nho. Đấy là việc không thể không làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của chữ Nho. Tính triết lý sâu xa, ý nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết nào, giúp người học rèn trí thông minh, luyện tư duy… Chỉ điều này mới giúp chúng ta tiếp nối với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học giả nước ngoài cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và kế hoạch lớn. Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình tiếng Việt phổ thông, nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ, nhằm giải nghĩa những từ thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ điển tiếng Việt.

Chúng tôi xin mạo muội đề nghị, cần một cuộc cách mạng loại bỏ thuật ngữ “từ Hán Việt” khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Tài Cẩn – Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1979

2. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.

3. Đỗ Ngọc Thành. Nhannamphi.com

4. Hà Văn Thùy. Chữ Việt chủ thể sáng tạo chữ viết Trung Hoa http://huc.edu.vn/chi-tiet/1868/Chu-Viet-la-chu-the-sang-tao-chu-viet-Trung-Hoa.html


6. Hậu Hán thư- Mã Viện truyện

7. Hà Văn Thùy – Nỗi bất an của lịch sử http://trannhuong.com/tin-tuc-15551/noi-bat-an-cua-lich-su.vhtm

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013

Nhân SEAGAMES 27 nghĩ về tính cách người Việt

Hình chỉ có tính minh họa
Mấy hôm rày lại được dịp nghe các bình luận viên nước nhà (BLV) chê trách trọng tài SEAGAMES 27 (tại Myanma) "xử tệ" đối với vận động viên Việt Nam. Sẽ là chuyện bình thường nếu những lời chỉ trích đó được nêu lên với chứng cứ rõ ràng, ở  mức độ vừa phải, tốt nhất là trong một chương trình riêng. Đằng bày nó diễn ra đối với hầu hết những trường hợp mà trong đó vận động viên Việt Nam bị thua. Cách bình luận như vậy không khỏi khiến nhiều người liên hệ đến một tính cách đặc trưng của người Việt: Cái gì không tốt, không lợi cho mình thì  "đổ tại" người khác, tại khách quan...

Đây không phải lần đầu và cũng không phải chỉ trong thi đấu thể thao SEAGAMES. "Đổ tại" còn diễn ra phổ biến trong lĩnh vực kinh tế-xã hội và an ninh quốc phòng. Không biết từ bao giờ, hể nói đến chiến tranh thì đổ tại kẻ thù, tại đất nước ta giàu đẹp, nằm ở vị trí chiến lược nên nhiều kẻ nhòm ngó, tranh nhau .... Nói đến nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển thì đổ tại hậu quả chiến tranh, nếu không thì cũng tại thiên tai bảo lụt, hạn hán .... Cách lập luận này đã một thời trở thành công thức, thậm chí như một chân lý hiển nhiên đối với người Việt Nam vậy. Nó được vận dụng một cách nhiệt thành không chỉ trong hàng ngũ cán bộ tuyên huấn hoặc cán bộ làm công tác đối ngoại mà cả trong sinh viên học sinh và dân chúng. Có lẽ đến nay nó vẫn còn nguyên đó bất chấp những hậu quả nhãn triền và ngày càng có nhiều ý kiến phê phán, cảnh báo. Đó là nguyên nhân sâu xa của cung cách làm ăn chắp vá, chụp giựt, "bóc ngấn cắn dài", "ăn hôm nay lo ngày mai" chỉ cọi trọng những biện pháp mang tính ứng phó ngắn hạn, thiếu chủ động tiến công. Đó là mảnh đất mầu mỡ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi với tâm lý cục bộ, địa phương, thủ cựu.   Tiếc thay trên thực tế nó đã và đang có tác dụng như một loại thuốc an thần đối với dân tộc này trong nhiều thập kỷ nay. Người ngoài tất nhiên không mấy ai phản đối, đơn giản vì nó không không ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Tuy nhiên, thứ thuốc nào cũng có những tác dụng phụ của nó dối với người dùng, đó chính là Việt Nam.

Nếu đúng như lời "đổ tại" của các BLV nói trên đây thì  giới trọng tài quốc tế thật xấu xa, nước chủ nhà cũng xấu, và các vận động viên Việt Nam thật thiệt thòi.... Bằng cách đưa tin và bình luận như vậy họ, đang thực sự khuyến khích thứ tình cảm ganh đua không lành mạnh trong công chúng đồng thời làm nhụt ý chí phấn đấu của các vân động viên. Ho đang vô tình  góp phần gieo rắc tâm lý tin rằng nước nào lầm chủ nhà SEAGAMES thì đều phải thiên vị cho đội nhà, và do đó tài năng là một chuyện, kết quả thi đấu là một chuyện khác!. Đối với sự nghiệp thể thao nói riêng và xây dựng đất nước nói chung, ho đang làm  cái việc "Gậy ông đập lưng ông" rồi đấy!./. 

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Khi lịch sử bị hiểu sai

Trên thế giới lịch sử dân tộc bao giờ cũng dài hơn nhiều so với lịch sử quốc gia, thậm chí có những dân tộc biến mất hoặc không còn quốc gia. Mặc khác, hầu hết lịch sử của các dân tộc đều có thời kỳ tiền sử chủ yếu được lưu truyền bằng tuyền thuyết có khi hàng chục ngàn năm. Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Điều may mắn là dân tộc Việt vẫn tồn tại với thực thể quốc gia đến ngày nay sau "ngàn năm Bắc thuộc" là một thời gian đủ dài để bị xóa dấu vết. Do đó, sẽ là sai lầm nếu bác bỏ truyền thuyết hoặc tin vào truyền thuyết một cách mù quáng như nó đã và đang diễn ra. 

Đó là lý do để chủ blog Bách Việt xin mạn phép các tác giả đăng lại nội dung dưới đây với một tiêu đề khác: "Khi lịch sử bị hiểu sai" với mong muốn rằng các nhà nghiên cứu hãy tập trung giải mã những khuất tất bằng chính những công trình nghiên cứu của bản thân, chứ không chỉ dựa vào tư liệu và sử sách của nước khác để tô vẽ hoặc bác bỏ truyền thuyết của dân tộc mình-Bách Việt. 
Kinh Dương Vương, Ông nội của Vua Hùng là sản phẩm văn hóa Tàu  (Ts Trần Trọng Dương) Theo blog Nguyễn Xuân Diện Kinh Dương Vương- ông là ai?
Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân: Vừa qua, được biết tỉnh Bắc Ninh đã triển khai một dự án khôi phục và tăng quy mô xây dựng khu di tích thờ "Thủy tổ Kinh Dương Vương - ông nội của Vua Hùng", với vốn đầu tư 500 tỷ đồng. Thật là hãi hùng về con số chi phí khổng lồ này, trong khi tình hình kinh tế đang hồi bấn loạn, ngân khố cạn kiệt, nhân tâm đang xáo động.
"Ông nội của Vua Hùng" - chính điều này đã thôi thúc một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cất công, một lần nữa truy tìm nguồn gốc của Kinh Dương Vương. Và thật bàng hoàng: Kinh Dương Vương phải chăng chỉ là một sự cóp nhặt của Ngô Sĩ Liên từ nhân vật Kinh Xuyên trong tiểu thuyết truyền kỳ Trung Hoa? Phải chăng, chúng ta đã và đang, và còn mãi về sau thờ một ông vua giả có nguồn gốc của Tàu?
Như trong bài viết trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng Đại Việt sử ký toàn thư- bộ sử quan trọng nhất của Việt Nam đề cập đến những sự kiện từ khởi thủy cho đến thế kỷ XVII- là một tư liệu được biên soạn trên tư duy đa nguyên "văn- sử- triết" của thời Trung Đại. Trong đó, bộ sử này đã sưu tập nhiều huyền thoại dân gian của đời sau để bù đắp cho những khuyết thiếu của sử liệu. Trong bài này, chúng tôi sẽ tiếp tục đưa ra những cứ liệu để làm rõ hơn vấn đề tai hại trên. Đối tượng được đề cập đến ở đây chính là Kinh Dương Vương- một nhân vật được coi là thủy tổ của Việt Nam- phải chăng chỉ là một ảo ảnh diễn hóa từ nhân vật Kinh Xuyên trong tiểu thuyết truyền kỳ của Trung Quốc?


Cổng đền thờ Kinh Dương Vương có bốn chữ Hán đắp nổi THỦY TỔ ĐÀI MÔN,
ảnh: Thọ Bình, Bá Kiên, theo tienphong.vn

Kinh Dương Vương và tín ngưỡng thờ Kinh Dương Vương
Theo như cách trình bày ở Kỷ Hồng Bàng thị trong Toàn thư, Kinh Dương Vương tên là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông, vị vua khai sáng ra nước Xích Quỷ (quỷ đỏ). Vì thế Kinh Dương Vương này được Ngô Sĩ Liên coi như là là vị thủy tổ đầu tiên của người Việt và nước Việt. Chẳng những thế, Kinh Dương Vương còn lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long để sinh ra Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân. Lạc Long Quân sau lấy Âu Cơ- con gái của Đế Lai, sinh ra trăm con trai, 50 con lên rừng, 50 con xuống bể. Vị con trưởng được nối ngôi cha, phong là Hùng Vương. Sử gia Ngô Sĩ Liên thế kỷ XV đã bình luận đoạn này như sau: "Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?"[1]. Kể từ sau Ngô Sĩ Liên, phần lớn các bộ lịch sử Việt Nam đều công nhận Kinh Dương vương là thủy tổ của nước Việt. Ví dụ như sách Thiên Nam minh giám (thế kỷ XVII) mở đầu như sau:
"1- Tượng mảng xưa sách trời đã định,
Phân cõi bờ xuống thánh sửa sang,
Nước Nam từ chúa Kinh Dương,
Tày nhường phải đạo mở mang phải thì.
5- Tới Lạc Long nối vì cửu ngũ,
Thói nhưng nhưng no đủ đều vui,
Âu Cơ gặp gỡ kết đôi,
Trổ sinh một bọc trăm trai khác thường.
Xưng Hùng Vương cha truyền con nối,
10- Mười tám đời một mối xa thư,
Cành vàng lá ngọc xởn xơ,
Nước xưng một hiệu năm dư hai nghìn."[2]
Đến thế kỷ XVII, Kinh Dương Vương đã chính thức được văn hóa dân gian đưa vào thờ làm vị thủy tổ trong đền ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh (ngày nay). Năm 1840, đền cho dựng bia đá "Kinh Dương Vương lăng". Năm 1940, đời vua Bảo Đại, đền làm thêm hai đại tự "Nam Tổ miếu" và "Thần truyền thánh kế". Năm 2000, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã về thăm đền và để lại bút tích gợi ý tỉnh Bắc Ninh có đề xuất lên trung ương nâng cấp cơ sở thờ tự của tổ tiên. Năm 2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đã đến thăm đền và để lại những lời kỷ niệm sâu sắc về cội nguồn dân tộc[3]. Năm 2012, các tác giả Trần Quốc Thịnh, Đỗ Văn Sơn, Biện Xuân Phẩm đã xuất bản cuốn sách “Nam Bang Thủy Tổ Kinh Dương Vương” - Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. Sách tập hợp các tư liệu từ “Đại Việt Sử ký toàn thư”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Thủy Kinh chú”… từ các truyền thuyết, văn bia, thần phả, thần tích cũng như công trình nghiên cứu, tham luận của các học giả, nhà sử học. Ngày 25 tháng 2 năm 2013, tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức lễ hội kỷ niệm 4892 năm Đức thủy tổ khai sinh mở nước. Đến dự lễ khai hội có Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân và lãnh đạo một số Bộ, ngành.


Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cùng các đại biểu dâng hương tưởng niệm Đức Thủy tổ Kinh Dương Vương. Ảnh: dangcongsan.vn -

Sau lễ dâng hương, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã dự lễ khởi công Dự án tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương. Theo quy hoạch đã được tỉnh Bắc Ninh phê duyệt, dự án có tổng diện tích gần 40ha, gồm không gian bảo tồn di tích, không gian phát huy giá trị di tích, không gian quản lý và dịch vụ phụ trợ, với nguồn vốn đầu tư gần 500 tỷ đồng[4]. Như vậy, sau nhiều trăm năm tồn tại, tín ngưỡng thờ Kinh Dương Vương đến nay đã chính thức được sự đồng thuận của nhà nước.
Kinh Dương Vương- từ nhân vật của truyện truyền kỳ Trung Hoa
Tuy nhiên, như ngay ở đầu bài viết, chúng tôi có ý nghi vấn rằng, Kinh Dương Vương chưa chắc đã là một nhân vật lịch sử có thật, mà có thể đó chỉ là một sự nhầm lẫn của Ngô Sĩ Liên khi ông đã sưu tầm một câu chuyện văn học để mở đầu cho một công trình sử học của nước nhà. Chứng cớ nào đề chúng tôi có thể đi đến nghi ngờ như vậy?
Chứng cứ nằm ngay trong Toàn thư, sau khi viết về lai lịch, cuộc đời của Kinh Dương Vương, Ngô Sĩ Liên đã viết: “Xét Đường kỷ chép: thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi”[5]. Nhưng chúng ta còn thấy chuyện này được chép trong sách Lĩnh Nam chích quái (một tác phẩm văn học sưu tầm những chuyện quái dị ở Lĩnh Nam) của Trần Thế Pháp (thế kỷ XIV?)[6], rồi sau đó lại được sao chép nguyên vẹn vào trong thần tích của Mẫu Thoải tại Tuyên Quang[7].
Cần nhắc lại ở đây ghi chép về nguồn Đường kỷ của Ngô Sĩ Liên là một gợi ý hữu ích cho những người nghiên cứu sau này. Từ gợi ý đó, một số học giả đã tìm ra cả chục văn bản văn học Trung Quốc có chép câu chuyện này. Lần xa hơn nữa, các học giả đều thống nhất cho rằng, truyện Kinh Dương Vương có sự sao chép từ tiểu thuyết Liễu Nghị truyện (柳毅傳) do Lý Triều Uy sáng tác vào đời Đường[8]. Truyện có thể tóm tắt như sau: Liễu Nghị là một nho sinh thi trượt, trên đường gặp một thiếu phụ chăn dê xinh đẹp nhưng dáng vẻ tiều tụy. Người phụ nữ ấy nói rằng mình là con gái của Long Vương ở hồ Động Đình, vốn lấy con trai thứ của Kinh Xuyên, nhưng bị bạc đãi, bắt đi chăn dê, nên muốn nhờ Liễu Nghị chuyển thư đến cho cha để báo tình cảnh của mình. Liễu Nghị đem thư xuống Long cung. Em trai Long Vương là Tiền Đường giận quá nên giết con trai của Kinh Xuyên, cứu cháu về, rồi định gả cho Liễu Nghị. Nghị từ chối, xin về, được Long vương ban cho nhiều vàng bạc châu báu. Sau Liễu Nghị lấy vợ, lần nào lấy xong vợ cũng chết. Con gái Long Vương thấy vậy bèn nhớ lại duyên cũ, muốn báo đáp bèn hóa làm người con gái xinh đẹp mà lấy Liễu Nghị làm chồng. Sau hai vợ chồng đều thành tiên[9].
“Liễu Nghị truyện” được coi là một truyện truyền kỳ sớm nhất của Trung Quốc. Từ cuối đời Đường, truyện được lưu hành rộng rãi trong dân gian. Đến thời Tống trở đi, truyện Liễu Nghị được Thượng Trọng Hiền chuyển thể sang kịch bản tạp kịch với tên “Động Đình hồ Liễu Nghị truyền thư”[10]. Liễu Nghị đã trở thành một tích truyện rất được ưa thích trong văn hóa diễn xướng của người Trung Quốc. Hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng đã ra đời, như nhà Tống có Liễu Nghị đại thánh nhạc, nhà Kim có Liễu Nghị truyền thư của Gia Cùng Điệu, triều Nguyên có Liễu Nghị Động Đình long nữ (Nam hí), thời Minh Thanh có Quất bồ ký của Hứa Tự Xương, Long tiêu ký của Hoàng Thuyết, Long cao ký của Dương Ban, Thẩn trung lâu của Lý Ngư, Thừa long giai thoại của Hà Phủ[11].
Cho đến nay, Liễu Nghị truyền thư (còn có tên Thủy tinh cung, Liễu Nghị kỳ duyên) vẫn được người Trung Quốc coi như là một kịch mục kinh điển của hý kịch Trung Hoa. Từ năm 1952, vở kịch này đã nhiều lần được dàn dựng bởi các đạo diễn khác nhau, số lần trình diễn có lẽ là khá nhiều, hiện chưa thể thống kê hết được[12]. Không những thế, tích truyện này đang có xu hướng được áp dụng sang các hoạt động văn hóa khác hiện nay ở Trung Quốc. Ví dụ, người ta lấy đề tài này làm tranh khắc ván, thư họa truyền thống (thủy mặc).

Ngày 17 tháng 7 năm 2004, Bưu cục Quốc gia Trung Quốc đã phát hành seri tem “Dân gian truyền thuyết- Liễu Nghị truyền thư”, gồm 4 con tem với 4 hoạt cảnh: “Long nữ gửi thư”, “Thư gửi Động Đình”, “Cốt nhục đoàn tụ”, và “Nghĩa trọng tình thâm”[13].
Và những nhận định của sử gia đời sau
Đến đây có thể nhận định về nguồn gốc của các mô típ, các nhân vật, cũng như địa danh trong truyện Kinh Dương Vương được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên đã tình cờ đem một số chi tiết của truyện Liễu Nghị để ghép với các huyền thoại khác như Lạc Long Quân- Âu Cơ, và coi đó như là nguồn gốc khởi đầu cho sự xuất hiện của Hùng Vương- cái triều đại mà người Việt ngày nay coi như là lịch sử đích thực của mình. Nhưng, với một tác phẩm có ảnh hưởng lớn như vậy, các nhà Nho Việt Nam trong nhiều thế kỷ hẳn cũng phải biết đến. Bằng chứng là nhà thơ nổi tiếng Thái Thuận (Tiến sĩ 1475) cũng đã sáng tác bài thơ Liễu Nghị truyền thư. Nhưng đó là chuyện của văn học.
Còn với tư cách là những người viết sử, không ít sử gia thời Trung Đại đã phản đối cách lắp ghép của Ngô Sĩ Liên. Đầu tiên, phải kể đến những nhận định của Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử kí tiền biên. Ông viết: “Nay xét phần Ngoại kỉ chép: Năm Nhâm Tuất thì bắt đầu Giáp Tí là năm nào? Ghi chép tên húy Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sao riêng lược bỏ Hùng Vương? Thời Ngũ Đế trở về trước thì chưa từng gọi là vương. Xích Quỷ là tên nào, mà lại để làm tên nước. Một loạt hoang đường càn rỡ đều là đáng bỏ đi. Cái lỗi ấy là tại kẻ hiếu sự thấy trong Liễu Nghị truyền thư. Trong truyện nói con gái vua Động Đình gả cho con thứ của Kinh Xuyên Vương, tưởng càn Kinh Xuyên là Kinh Dương. Đã có vợ chồng thì có cha con, vua tôi, nhân đó mà thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua, nhà làm sử theo đó mà chọn dùng, và cho đó là sự thực. Phàm những chuyện lấy từ Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, cũng như Bắc sử lấy ở Kinh Nam Hoa và thiên Hồng Liệt đấy.”[14]
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1856 - 1883) viết: “Vâng tra sử cũ, danh xưng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân trong ‘Kỉ họ Hồng Bàng, vốn từ thời Thượng cổ, thuộc thuở hồng hoang, tác giả căn cứ vào cái không và làm ra có, sợ rằng không đủ độ tin cậy, lại phụ hội với Liễu Nghị truyện của nhà viết tiểu thuyết đời Đường, lấy đó làm chứng cứ”[15] . Chuẩn tâu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những “câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc” và kiên quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng Vương, để “cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi”[16].
Qua những trình bày ở trên, độc giả đã phần nào mường tượng ra con đường thu nhận biến đổi tích truyện từ truyện Liễu Nghị đến truyện Kinh Dương. Đây sẽ là những tư liệu thú vị để nghiên cứu về tiếp xúc văn học văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa. Đồng thời cũng là “mẫu sử liệu” thú vị cho giới nghiên cứu khám nghiệm và giám định. Đến đây, chúng tôi xin mượn lời của giáo sư Liam Christopher Kelley (Đại học Hawaii) để kết thúc bài viết này: trải qua nhiều thế kỷ, những truyền thống mà họ [các sử gia] sáng tạo đã trở thành cái tự nhiên thứ hai (second nature). Thực tế, trong nửa thế kỷ qua, dưới sự ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc, những truyền thống được sáng tạo ấy (invented traditions) đã và đang trở thành những sự thực không thể thay đổi[17].
Ts Trần Trọng Dương
[1] Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 1. Ngô Đức Thọ dịch chú, Hà Văn Tấn hiệu đính. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.131-133.
[2] Trịnh thị. (1624-1657). Thiên Nam minh giám. tr.4a. (Thư viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh , ký hiệu HNv.006) trang 1a. Tham khảo phần phiên khảo của Hoàng Thị Ngọ, (1994). Nxb Văn học. Hà Nội.
[3] Thọ Bình - Bá Kiên. Đầu năm thăm lăng Kinh Dương Vương ( ông nội vua Hùng ). Theo tienphong.vn
[4] Việt Cường. Bắc Ninh khai hội Kinh Dương Vương. http://vtv.vn
[5] Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. sdd. tr.133.
[6] Trần Thế Pháp. (XIV?). Lĩnh Nam chích quái. ký hiệu. A.1200 (Viện NC Hán Nôm), tr.4a-4b.
[7] Nguyễn Thanh Tùng. 2010. Giao lưu tiếp biến văn hoá Trung - Việt trong lịch sử: khảo sát sự tiếp nhận tích truyện Liễu Nghị truyền thư ở Việt Nam thời trung đại. Hội thảo Quốc tế giao lưu Văn hóa Việt Nam Trung Hoa. Tp Hồ Chí Minh.
M. Durrand. 1959. Technique et Pantheon des médiems Vietnamien. BEFEO. Vol.XLV, Paris. [chuyển dẫn Ngô Đức Thịnh. 2009. Đạo mẫu Việt Nam.(Tập 1) Nxb Tôn giáo. Hà Nội. tr.63- 64.
[8] Tiền Chung Liên vcs (tổng chủ biên). tb2000. Trung Quốc văn học đại từ điển (thượng). Thượng Hải từ thư xuất bản xã. Thượng Hải. tr.277.
[9] Tiền Chung Liên vcs (tổng chủ biên). tb2000. sdd. Tr.409.
Bản dịch tiếng Việt có thể tham khảo : Lí Triều Uy, Liễu Nghị truyện, Xuân Huy dịch, in trong “Tuyển dịch một số truyện truyền kì ưu tú thời Đường Tống”, Tạp chí Hán Nôm, 1990. – Số 2 (9). - Tr.90-109.
[10] Tiền Chung Liên vcs (tổng chủ biên). tb2000. sdd. Tr. 831.
[11] Tiền Chung Liên vcs (tổng chủ biên). tb2000. sdd. Tr. 831.
[12] Quý vị có thể copy chữ Hán “柳毅传书” xem các trích đoạn vở kịch này trên http://www.youtube.com
[13] http://www.fhstamp.com/bbs/read.php?tid=784
[14] Ngô Thì Sĩ (soạn), Ngô Thì Nhậm (tu đính). 1800 (khắc in). Đại Việt sử ký tiền biên. Bắc Thành học đường tàng bản. Ký hiệu A2/2-7. Lê Văn Bảy, Dương Thị The, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Thị Thoa (dịch), Lê Duy Chưởng (hiệu đính). Nxb KHXH.H.1997. tr.40.
[15] Quốc sử quán triều Nguyễn (1856 - 1883), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển I, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: R.591, tờ 4a- 5b.
[16] Quốc sử quán triều Nguyễn (1856 - 1883), sdd. R.591, tờ 9b-10a.
[17] Liam C. Kelley. The Biography of the Hồng Bàng Clan as a Medieval Vietnamese Invented Tradition. Journal of Vietnamese Studies Vol. 7, No. 2 (Summer 2012), p. 122.
 Nguồn: Tia Sáng và đưa lại trên tranhung09.blogsspot.com 

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013

Cuộc hội ngộ sau 40 năm của nhóm cựu sinh viên VN tại Ấn Độ

Có lẽ ít người biết Ấn Độ đã từng là nước đầu tiên trong số các quốc gia Anh ngữ nhận đào tạo cán bộ tiếng Anh cho Việt Nam. Và điều này xảy ra vào năm 1973 khi Mỹ vừa ngừng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân chống miền Bắc và Hội nghị Paris bắt đầu chuyển sang giai đoạn cuối. Suốt thời kỳ chiến tranh cả Chính phủ VNDCCH và Chính phủ CMLT đều rất cần nguồn nhân lực tiếng Anh nhưng chưa bao giờ có thể cử sinh viên sang các nước mà ở đó tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, để đào tạo, lý do chính là vì không quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào trong số đó dám làm trái lệnh phong tỏa của Mỹ đối với Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Ấn Độ đã là cánh cửa đầu tiên mở ra, và sau đó một số năm lần lượt Úc, Anh, Tân Tây Lan cũng làm như vậy.  Sở dĩ tôi nói dong dài về điều này để thấy không phải đơn giản khi chính phủ Ấn Độ đã đi đầu trong việc phá rào cản của Mỹ đặt ra trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Và nếu nói về quan hệ truyền thống hữu nghị lâu đời Việt -Ấn thì đây là một dẫn chứng rất đáng kể, và nhóm sinh viên VN tại Đại Học J Nehru năm 1973-1974 (gọi tắt "Nhóm JNU") có một ý nghĩa rất đặc biệt.

Nhóm sinh viên JNU tham quan một đền cổ ở miền Bắc Ấn Độ mùa  Đông 1973  (Ảnh tư liệu của tác giả)




Photo: Vài hình ảnh về hội ngộ của nhóm cựu sinh viên Việt Nam du học Ấn Độ những năm trước 1975
Với Bà Nguyễn Thị Bình
Đến nay vừa tròn 40 năm trôi qua và giờ đây hầu hết nhóm cựu sinh viên đó đã  nghĩ hưu, một vài người không may đã qua đời, chỉ còn một thành viên đương chức là ông Lê Lương Minh đang làm Tổng Thư ký ASEAN. Trong hoàn cảnh đó để có một cuộc "hội ngộ" vào dịp này không phải là dễ. Tuy nhiên, với sáng kiến của ông Nguyễn Văn Huỳnh (cựu sinh viên JNU) một cuộc gặp mặt đã được thu xếp hôm qua (24/7/2013) lại tai số 61 Bà Triệu (Hà Nội) với sự tham dự của một số vị khách mời đặc biệt, đó là Bà Nguyễn thị Bình- Nguyên Ngoại trưởng Chính phủ CM LT, sau đó làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam thống nhất; và Ngài  đương kim Đại sứ  cùng một số cán bộ Sứ quán Ấn Độ tại Hà Nội. Đến dự còn có ông Vũ Quang Diệm người không thuộc nhóm JNU nhưng là bạn đồng môn, đồng nghiệp cùng thế hệ và từng có một nhiệm kỳ làm đại sứ tại Ấn Độ. Tuy chưa đông đủ mọi thành viên JNU, nhưng với thành phần kể trên cuộc gặp thật ý nghĩa. Đây là dịp để ôn lại những kỹ niệm đáng nhớ của một thời kỳ ý nghĩa nhất trong quan hệ Việt-Ấn. Chuyện cũ, chuyện mới, chuyện công, chuyện riêng cứ thế nổ như ngô rang trong bầu không khí cởi mở, chân tình và thân mật.

Về phần mình, các cựu sinh viên JNU bùi nguồi nhớ lại những ngày đầu "sang Tây Trúc lấy kinh" với bao điều lạ lẫm nhưng rất thú vị và đáng nhớ. Đầu tiên là sự ngỡ ngàng trước cái nắng nóng thường xuyên trên 40 độ C nhưng người Ấn hầu như không ai đội mũ (?) Tiếp đến là cái mùi cà-ri đặc trưng đi đâu cũng ngửi thấy của  xứ sở này. Và không sao quên được những cuộc tham quan đến những đền đài và di tích lịch sử cổ kính khắp mọi miền của đất nước Ấn Độ rộng lớn và đa dạng. Và những kỷ niệm vui buồn về cuộc sống tại  khu ký túc xá của trường vừa mới xây trên khu đồi sỏi đá không một bóng cây mà những sinh viên Việt Nam là một trong số những người đầu tiên dọn đến. Đó là nơi tụ tập sinh viên đến từ nhiều sắc tộc và tôn giáo trên khắp đất nước Ấn Độ, đặc biệt là các nữ sinh trong những bộ sa-ri nhiều màu sắc và kiểu cách trang sức độc đáo trên khuôn mặt và đôi mắt hút hồn của họ. Tất cả tạo nên một cộng đồng sinh viên mang đậm bản sắc Ấn Độ và không giống bất cứ một nước nào khác trên thế giới. Mọi người vẫn nhớ một chi tiết có lẽ chỉ có ở các trường học Ấn Độ, đó là lúc nào cũng có những người gác gọi là chu-ki-đa túc trực trước cửa các phòng ký túc nữ sinh để ngăn không cho nam sinh viên vào phòng, trong khi tại khu ký túc nam thì hoàn toàn tự do. Điều này có nghĩa là, nếu vì  một nguyên nhân nào, khi có nam, nữ ở cùng phòng với nhau thì coi như "xong rồi!". Kể ra đây là một thông lệ rất thú vị đấy chứ? 


Với Đại sứ  và 2 cán bộ Đại sứ quán Ấn Độ tại Hà Nội
Ông Nguyễn Sĩ Sung nguyên Trưởng Nhóm JNU nhớ lại chuyện thầy giáo Kapur một hôm đột nhiên hỏi cả lớp: "Sao hôm nay các anh không mặc comple?"  Cả lớp ớ ra...nhìn nhau cười. Chả là trước khi lên đường du học, như thường lệ Bộ Tài chính Việt Nam vẫn cấp  "quân trang" cho sinh viên, trong đó mỗi người có 2 bộ comple giống nhau của hiệu may Tiến Thành. Thời chiến tranh vải rất khan hiếm huống chi là màu sắc và kiểu cách! Bất luận đoàn gồm bao nhiêu người, là nam giới thì phải comple và sơ mi trắng. Đúng thời kì đó chỉ có vải xi-mi-li là loại được ưa thích vì vừa bền chắc, vừa không phải lo giặt là!. Nhưng chỉ có màu đen. Ai không thích đen cũng không thể đổi sang màu khác! Tất cả được đựng trong một chiếc va ly vải bố thô kệt không lẫn vào đâu được! Comple là "bộ cánh bốn mùa" của cán bộ và sinh viên Việt Nam khi được cử ra nước ngoài dù xứ lạnh hay xứ nóng, đi ngắn hạn hay dài hạn... (Chẳng hay các vị nào thích bàn về "quốc phục" có để ý đến chi chiết mang tính lịch sử này không nhĩ?) . Khi nào lạnh quá thì mặc thêm chiếc áo len, khi nào nóng quá thì chỉ mặc áo sơ mi trắng. Giầy thì cũng chỉ một loại của Nhà máy Giày da Thụy Khuê với một model muôn thuở, sang đến xứ người phần da co chật, phần đế bong tróc "há mồm"..., nhiều phen chết ngượng giữa đường! Riêng anh em Đoàn đi Ấn Độ năm ấy đã tự nhận ra mình trong bộ comple đồng phục màu đen và đùa với nhau "giống như đàn quạ!". Sở dĩ thầy Kapur hỏi vậy là vì hôm đó mọi người đã có dịp ra cửa hàng mua vài chiếc áo khác màu mặc lên lớp mà!

Cứ thế, hết chuyện nọ sang chuyện kia tưởng không bao giờ dứt. Bên cạnh những câu chuyện chính trị-xã hội có phần nghiêm chỉnh vẫn là những chuyện vui hài, và cũng có những chuyện về các sự cố không mong muốn...., và tất nhiên không thể thiếu vắng chủ đề ăn uống. Sau một thời gian ăn chung tại nhà ăn ký túc xá, nhóm sinh viên Việt Nam nhận ra rằng không thể nào tiếp tục như thế, vì không chỉ khác biệt về khẩu vị mà cả về cách ăn: Quân ta không thể nào ăn bằng những ngón tay... trong khi các bạn Ấn Độ dường như chỉ có thể ăn ngon bằng hai bàn tay của họ. Theo lẽ thường thì cái gì cũng có thể cố để thích ứng, nhưng chuyện ăn uống thì không. Kể cũng lạ! Rốt cuộc Ban quản lý nhà trường đã đồng ý và còn nhã ý "hỗ trợ" để nhóm sinh viên Việt Nam "tự biên, tự diễn" trong khâu ăn uống. Từ đó cứ sau mỗi buổi học mọi người tranh thủ ghé qua chợ rồi về nhà nấu ăn xì xụp với nhau rất ngon lành, và cũng rất hiệu quả! Phải chăng đây chính là một trong những đặc điểm dân tộc của người Việt, bất luận đó là tốt hay xấu?
 

Có rất nhiều những ký ức và không sao có thể kể hết ra được. Do điều kiện hạn hẹp, cuộc gặp mặt chỉ diễn ra trong quảng 2 giờ. Nhưng có lẽ điều quan trọng là nó không chỉ làm sống lại trong ký ức của mọi người về những gì đã xảy ra cách nay 40 năm mà còn gợi lên những gì cần làm trong thời gian sắp tới. Đó là cảm nhận từ không khí cuộc gặp giữa những con người không chỉ  nặng tình với quá khứ mà đồng thời luôn ý thức về hiện tại và tương lại. Là "người trong cuộc" tôi chỉ mạn phép ghi lại đôi điều và cung cấp một số hình ảnh để lưu niệm và chia sẻ cùng mọi người. Hi vọng cuộc hội ngộ đầu tiên này sẽ tạo tiền đề cho nhiều hoạt động khác.

Trần Kinh Nghị                            

      .

Tìm kiếm Blog này