Giàn khoan Haiyang 981- "lãnh thổ di động" của TQ |
Hiển thị các bài đăng có nhãn ASEAN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ASEAN. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Hai, 2 tháng 6, 2014
Lại do dự?
Thứ Hai, 10 tháng 3, 2014
Tàu lạ, máy bay quen
Hai ngày qua cùng lúc có hai thông tin với nội dung căn bản hoàn toàn giống nhau: một về vụ mất tích của chiếc máy bay hành khách của hãng hàng không Malaysia; và một về "tàu lạ" khống chế, cướp phá tàu cá của Việt Nam xem thêm tại đây . Cả hai vụ việc đều xảy ra trên biển Đông, đều mang nội dung nhân đạo và có yếu tố khủng bố. Vụ máy bay mất tích gây thiệt hại lớn và mang tính chất quốc tế nhưng không thiết thân đối với Việt Nam trong khi vụ tàu cá hoàn toàn xảy ra trong vùng biển của Việt Nam gây thiệt hại nặng nề trực tiếp đối với dân chài Việt Nam, và đây chỉ là vụ mới nhất trong hàng ngàn vụ đã xảy ra.
Tuy nhiên, qua cách thức đưa tin và điều hành xử lý của nhà chức trách Việt Nam cho thấy một sự mất cân đối khó hiểu. Nó được thể hiện từ khâu phát ngôn đến khâu chỉ đạo các ngành, các cấp và việc đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trong khi mọi sự "ưu ái" dồn cho vụ máy bay mất tích với hàng trăm chuyến xuất kích của máy bay và tàu thủy (chắc chắn là rất tốn kém) được điều đi phục vụ việc tìm kiếm cứu hộ đối với chiếc máy bay của Malaysia thì chỉ một vài tờ báo mạng đưa tin chung chung về "tàu lạ" khống chế tàu cá của Nha Trang, tuyệt nhiên không thấy phương tiện, lực lượng nào tham gia ứng cứu. Đây không phải lần đầu dân chài bị bỏ mặc trước hành động cướp phá, phạt vạ của các lực lượng Trung Quốc. Điều đáng nói là, đổi lại sự đôn đáo của Việt Nam trong vụ máy bay mất tích, phía Trung Quốc lại lên tiếng nghi ngờ năng lực của Việt Nam đồng thời tìm cách lợi dụng vụ này để đưa thêm lực lượng vào biển Đông.
Tuy nhiên, qua cách thức đưa tin và điều hành xử lý của nhà chức trách Việt Nam cho thấy một sự mất cân đối khó hiểu. Nó được thể hiện từ khâu phát ngôn đến khâu chỉ đạo các ngành, các cấp và việc đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trong khi mọi sự "ưu ái" dồn cho vụ máy bay mất tích với hàng trăm chuyến xuất kích của máy bay và tàu thủy (chắc chắn là rất tốn kém) được điều đi phục vụ việc tìm kiếm cứu hộ đối với chiếc máy bay của Malaysia thì chỉ một vài tờ báo mạng đưa tin chung chung về "tàu lạ" khống chế tàu cá của Nha Trang, tuyệt nhiên không thấy phương tiện, lực lượng nào tham gia ứng cứu. Đây không phải lần đầu dân chài bị bỏ mặc trước hành động cướp phá, phạt vạ của các lực lượng Trung Quốc. Điều đáng nói là, đổi lại sự đôn đáo của Việt Nam trong vụ máy bay mất tích, phía Trung Quốc lại lên tiếng nghi ngờ năng lực của Việt Nam đồng thời tìm cách lợi dụng vụ này để đưa thêm lực lượng vào biển Đông.
Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013
Diễn biến đáng chú ý liên quan Biển Đông
Theo VNTTX, chiều 2/9 tại Nam Ninh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và người đồng cấp TQ Lý Khắc Cường nhất trí cho rằng hai nước cần cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định tại Biển Đông, kiểm soát tốt tình hình trên biển, giải quyết thoả đáng mọi vấn đề thông qua đàm phán hòa bình.
Phát biểu tại cuộc hội đàm nhân dịp sang tham dự hội chợ Trung Quốc - ASEAN (CAEXPO) và hội nghị thượng đỉnh đầu tư - thương mại ASEAN-Trung Quốc (CABIS) tại Nam Ninh (Quảng Tây), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, việc không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước là chính sách lâu dài và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường nhấn mạnh, Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc hết sức coi trọng quan hệ với Việt Nam, sẵn sàng cùng với Việt Nam nỗ lực thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước không ngừng đi vào chiều sâu.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường. Ảnh: VGP
Hai nhà lãnh đạo cũng đi sâu trao đổi và đạt được nhiều nhận thức chung về những biện pháp thúc đẩy quan hệ hai nước thời gian tới, như: duy trì và tăng cường chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao; thúc đẩy hợp tác thực chất cùng có lợi trên mọi lĩnh vực, nhất là về kinh tế - thương mại, nỗ lực hoàn thành trước hạn mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên 60 tỷ USD vào 2015; cân bằng thương mại, giảm dần nhập siêu của Việt Nam; triển khai các dự án hợp tác kinh tế lớn, nhất là về kết nối giao thông hai nước; tăng cường hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương, hoạt động giao lưu nhân dân; tăng cường tuyên truyền hữu nghị.
Về vấn đề trên biển, hai bên nhất trí cho rằng cần cùng nhau duy trì hoà bình, ổn định tại Biển Đông, kiểm soát tốt tình hình trên biển, giải quyết thoả đáng mọi vấn đề thông qua đàm phán hòa bình. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, hai bên cần tuân thủ nghiêm túc Thỏa thuận Việt Nam - Trung Quốc về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, giải quyết thỏa đáng tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Đồng thời, đề nghị hai bên sớm đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả các cơ chế đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng và giữa cơ quan quản lý ngư nghiệp hai nước như đã thỏa thuận, góp phần kịp thời xử lý ổn thỏa những vấn đề nảy sinh nhất là vấn đề tàu cá, ngư dân.
Tại hội đàm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam trân trọng mời Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường sớm sang thăm Việt Nam. Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường vui vẻ nhận lời. (Phóng viên Thanh Vân từ Nam Ninh).
Trong một tin khác, đài VOA cùng ngày đưa tin rằng căng thẳng trong quan hệ giữa Philippines và TQ leo thang vì chuyến đi của ông Tổng thống Aquino sang Nam Ninh bị hủy bỏ.
![]() |
Tổng thống Philippines Benigno Aquino. |
Philippines là nước danh dự tại cuộc triển lãm Trung Quốc-ASEAN năm nay. Và theo các giới chức Philippines thì truyền thống là cử vị nguyên thủ quốc gia của nước danh dự đến tham dự sự kiện.
Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Philippines Raul Fernandez nói Tổng thống Aquino đã được mời tham dự, nhưng với một số điều kiện do Trung Quốc đề ra. Ông Hernandez đã đọc một thông cáo trong một cuộc họp báo tại Manila hôm nay. “Và những điều kiện như thế dứt khoát đi ngược lại với quyền lợi quốc gia của chúng tôi. Ðể tránh lúng túng cho phía Trung Quốc, chúng tôi sẽ không nói rõ những điều kiện này.”
Ông Hernandez nói các giới chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói với các giới chức Philippines chớ nên nói và không bàn luận về các điều kiện đó ở cấp bực bộ trưởng.
Ông Aquino đã loan báo ông sẽ tham dự, nhưng chưa đầy 1 ngày sau khi loan báo, có tin Trung Quốc đã yêu cầu ông hủy bỏ chuyến đi. Các giới chức Philippines cho biết Trung Quốc đã nói rằng ông nên đến “vào một thời điểm thuận lợi hơn.” Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho hay họ không hề mời tổng thống Philippines và không cho biết thêm chi tiết.
Hai nước đã lâm vào một cuộc tranh chấp ngoại giao về lãnh hải trong vùng Biển Đông giàu tài nguyên. Bang giao nguội lạnh hồi tháng 4 năm ngoái khi tàu thuyền của cả hai nước đối đầu nhau tại một bãi cạn gần bờ biển tây bắc Philippines. Manila nói vùng bãi cạn này nằm sâu trong khu đặc khu kinh tế của họ - theo định danh của Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc.
Trung Quốc đã chận một khu vực eo biển của bãi cạn, mà họ nhận là thuộc vùng đánh cá của họ. Philippines đã khiếu nại về những vụ tàu hải giám và tàu quân sự của Trung Quốc xâm nhập vào khu vực gần lãnh hải mà Philippines nhận là thuộc chủ quyền của mình.
Manila đã đệ hàng chục kháng thư và đưa vụ việc ra trước một tòa án trọng tài của Liên Hiệp Quốc. Bắc Kinh bác bỏ vụ việc và đã không đáp lại bất kỳ yêu cầu về tố tụng nào. Một lần nữa Bắc Kinh nhắc lại rằng họ muốn có một cuộc đối thoại trực tiếp.

Trung Quốc khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi được” trong vùng Biển Đông. Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Ðài Loan cũng đòi chủ quyền trong vùng biển này.
Ông Trương Hoa, một phát ngôn viên đại sứ quán Trung Quốc ở Manila, không đưa ra lời bình luận về những cái gọi là điều kiện đề ra cho chuyến thăm của ông Aquino. Nhưng trong một thông cáo, ông Trương nói Trung Quốc coi trọng “tình thân hữu lâu đời” giữa hai nước.
“Trong những tình huống hiện hữu, Trung Quốc hy vọng rằng phía Philippines có thể hợp tác với phía Trung Quốc để khắc phục những khó khăn và rắc rối và thực hiện các nỗ lực thực sự nhằm đưa bang giao Trung Quốc và Philippines trở lại đúng hướng phát triển lành mạnh và ổn cố.”
Trung Quốc đang chủ trì một cuộc hội ý cấp thấp trong tháng này của Hiệp hội các Quốc gia đông nam Á gồm 10 thành viên. Họ sẽ thảo luận một quy tắc ứng xử có tính cưỡng hành pháp lý để xử lý các vụ tranh chấp trong vùng Biển Ðông. Philippines và Việt Nam đang vận động đòi mở các cuộc thương nghị đầy đủ về quy tắc đã được đề xuất, đã bị ì ạch từ hơn 10 năm. (Phóng viên: Simone Orendainngày 02.09.2013)
Ông Trương Hoa, một phát ngôn viên đại sứ quán Trung Quốc ở Manila, không đưa ra lời bình luận về những cái gọi là điều kiện đề ra cho chuyến thăm của ông Aquino. Nhưng trong một thông cáo, ông Trương nói Trung Quốc coi trọng “tình thân hữu lâu đời” giữa hai nước.
“Trong những tình huống hiện hữu, Trung Quốc hy vọng rằng phía Philippines có thể hợp tác với phía Trung Quốc để khắc phục những khó khăn và rắc rối và thực hiện các nỗ lực thực sự nhằm đưa bang giao Trung Quốc và Philippines trở lại đúng hướng phát triển lành mạnh và ổn cố.”
Trung Quốc đang chủ trì một cuộc hội ý cấp thấp trong tháng này của Hiệp hội các Quốc gia đông nam Á gồm 10 thành viên. Họ sẽ thảo luận một quy tắc ứng xử có tính cưỡng hành pháp lý để xử lý các vụ tranh chấp trong vùng Biển Ðông. Philippines và Việt Nam đang vận động đòi mở các cuộc thương nghị đầy đủ về quy tắc đã được đề xuất, đã bị ì ạch từ hơn 10 năm. (Phóng viên: Simone Orendainngày 02.09.2013)
Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013
Bóng đen của chủ nghĩa diệt chủng đang trở lại Cămpuchia?
Theo BBC, chủ nhật, 4 tháng 8, 2013, thì trang mạng Hoa ngữ Hoa Thương Thời Báo phát hành tại Campuchia hôm 2/8 cho hay: Sam Rainsy, lãnh đạo Đảng Cứu quốc đối lập của Campuchia, đã phát biểu rằng đảng ông xem Trung Quốc là một đồng minh quan trọng.
Ông cũng tỏ rõ sự ủng hộ dành cho Trung Quốc trên vấn đề tranh chấp trên Biển Đông. Nhà lãnh đạo đối lập Campuchia cũng gửi những thông điệp hữu nghị đến với Chính phủ và người dân Trung Quốc.
"Đảng của chúng tôi ủng hộ Trung Quốc trong việc bảo vệ toàn bộ lãnh thổ của các bạn. Tất cả mọi hòn đảo do Trung Quốc bảo vệ là lãnh thổ của Trung Quốc. Chúng tôi lên án bất cứ hành động xâm lược nào. Những hòn đảo ấy là của Trung Quốc và chỉ thuộc về Trung Quốc mà thôi."Sam Rainsy, lãnh đạo đối lập Campuchia nói.
Rainsy cho biết ông đã đến Trung Quốc nhiều lần và đã chứng kiến sự phát triển của Trung Quốc. Ông nói Trung Quốc là ‘hình mẫu để Campuchia học hỏi’.
“Chúng tôi không chỉ xem Trung Quốc là một người bạn mà còn là một đồng minh. Đảng của chúng tôi ủng hộ chính sách một Trung Quốc,” ông nói.
Ông cũng nói rất rõ rằng Đảng Cứu quốc sẵn sàng ủng hộ Trung Quốc đối với tranh chấp trên Biển Đông.
“Đảng của chúng tôi ủng hộ Trung Quốc trong việc bảo vệ toàn bộ lãnh thổ của các bạn. Tất cả mọi hòn đảo do Trung Quốc bảo vệ là lãnh thổ của Trung Quốc. Chúng tôi lên án bất cứ hành động xâm lược nào. Những hòn đảo ấy là của Trung Quốc và chỉ thuộc về Trung Quốc mà thôi,” ông phát biểu.
Rainsy cũng nhấn mạnh rằng những đảng phái ở Campuchia không thể ủng hộ Trung Quốc rõ ràng về Biển Đông giống như đảng của ông. Ông còn hỏi người phỏng vấn cách phát âm Biển Đông như thế nào trong tiếng Hoa.
Xem thêm thông tin tại đây http://tranhung09.blogspot.com/2013/08/sam-rainsy-la-ai-va-vi-sao-co-nhung.html
Bách Việt
“Chúng tôi không chỉ xem Trung Quốc là một người bạn mà còn là một đồng minh. Đảng của chúng tôi ủng hộ chính sách một Trung Quốc,” ông nói.
Ông cũng nói rất rõ rằng Đảng Cứu quốc sẵn sàng ủng hộ Trung Quốc đối với tranh chấp trên Biển Đông.
“Đảng của chúng tôi ủng hộ Trung Quốc trong việc bảo vệ toàn bộ lãnh thổ của các bạn. Tất cả mọi hòn đảo do Trung Quốc bảo vệ là lãnh thổ của Trung Quốc. Chúng tôi lên án bất cứ hành động xâm lược nào. Những hòn đảo ấy là của Trung Quốc và chỉ thuộc về Trung Quốc mà thôi,” ông phát biểu.
Rainsy cũng nhấn mạnh rằng những đảng phái ở Campuchia không thể ủng hộ Trung Quốc rõ ràng về Biển Đông giống như đảng của ông. Ông còn hỏi người phỏng vấn cách phát âm Biển Đông như thế nào trong tiếng Hoa.
Xem thêm thông tin tại đây http://tranhung09.blogspot.com/2013/08/sam-rainsy-la-ai-va-vi-sao-co-nhung.html
Bách Việt
Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013
Một lựa chọn khả thi cho đường sắt Bắc - Nam
Lời giới thiệu của chủ blog:
Là ngươi quê miền Nam nhưng hầu hết cuộc đời sống và làm việc ở Hà Nội, bản thân tôi và gia đình đã từng nhiều lần đi Tàu Thống nhất, từ những chuyến tàu nhếch nhác nhất trong những năm sau 1975 đến những chuyến tàu tuy chưa đẹp và chưa thuận tiện nhưng khá an toàn ngày nay, tôi thấy hoàn toàn đồng cảm với nội dung của bài viết dưới đây của tác giả người Nhật Pi Uy đăng trên báo Asahi Shimbun và được đưa lại trên Dân trí hôm nay.
May mắn thay, sau rất nhiều tranh cãi tại Quốc hội và trong công luận, cái gọi là "Dự án Tàu cao tốc Bắc -Nam " đã tạm hoãn vô thời hạn. Lúc đó tôi nghĩ "Ông Trời đã cứu Việt Nam khỏi một bàn thua trông thấy!" Và tôi cũng rất lấy làm thú vị khi đường hầm Đèo Hải Vân được khánh thành, nhưng đường sắt vẫn còn chạy trên con đường cũ của nó vắt vẻo trên đĩnh Đèo mà mỗi lần có dịp đi qua tôi vẫn thầm khen là "báu vật" của ngành du lịch Việt Nam chỉ tiếc rằng chưa được khai thác...
Thiết nghĩ, bài viết dưới đây nhắc nhỡ người Việt Nam, trước hết là giới lãnh đạo và doanh nhân, hãy đừng "tham bát bỏ mâm" và quay lại với những thế mạnh đích thực cuả mình (không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà trong cả lĩnh vực chính trị và an ninh quốc phòng). Khả thi lắm chứ, một tuyến đường sắt truyền thống vừa thích hợp với túi tiền của người dân vừa an toàn thuận tiện, và là một "đặc sản" của ngành du lịch nước nhà. Khả thi lắm chứ, một ngày không xa du khách quốc tế sẽ đến Việt Nam để đi tàu lửa ngắm cảnh đẹp bên bờ Biển Đông.
Báo Nhật viết về chuyến tàu Thống Nhất Bắc-Nam
(Dân trí) - Nhanh hơn chưa chắc đã tốt hơn, đó chính là suy nghĩ của các du khách Nhật sau khi được đi tàu Thống Nhất Bắc - Nam. Những trải nghiệm thú vị mà du khách có được từ chuyến đi này khiến nó không chỉ đơn thuần là một sự dịch chuyển.
Đã từng có thời Việt Nam muốn đưa công nghệ vận hành tàu hỏa siêu tốc Shinkansen của Nhật về Việt Nam để người dân nước mình có thể vào Nam ra Bắc chỉ mất 5 tiếng rưỡi. Tuy vậy, cuối cùng Việt Nam quyết định không thực hiện ý tưởng này.
Dù hành khách phải mất hơn một ngày ngồi trên chuyến tàu Bắc - Nam, vượt qua chặng đường 1.726km ngăn cách giữa Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhưng đối với người Việt Nam, đây không thể coi là một sự mệt nhọc, bất tiện.
Chuyến tàu Bắc - Nam từ lâu vốn được coi là chuyến tàu yêu dấu, mang đầy ý nghĩa đối với người Việt. Đường tàu Bắc - Nam vẫn “sống sót” sau chiến tranh với ngàn vạn tấn bom trút xuống, nó trở thành một trong những biểu tượng đẹp đẽ, thiêng liêng nhất của Việt Nam sau khi giải phóng. Đó là chuyến tàu hòa bình, hàn gắn, sum họp, thống nhất.
Lúc 7h ngày 8/5, đoàn của những du khách Nhật Bản đã đứng chờ sẵn ở sân ga Hà Nội. Biểu tượng quốc kỳ và hoa anh đào của Nhật được dán trên các toa tàu. Đây là chuyến tàu đầu tiên trong hàng loạt những chuyến tàu được vận hành đặc biệt cho tới hết ngày 23/9 nhằm kỷ niệm 40 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản.

Chuyến tàu được dự kiến sẽ tới ga Sài Gòn vào lúc 4h10 sáng ngày 10/5, tổng thời lượng của chuyến hành trình dài 33 tiếng. Hành trình dưới đây được kể lại dưới góc nhìn của một nhóm du khách người Nhật…
Lúc 8h39 tối ngày 8/5, tàu đã tới ga Nam Định, chỉ dừng lại ít phút rồi đi tiếp. Sau khi rời khỏi ga này, ánh đèn của xe cộ và nhà cửa dọc hai bên đường thành phố dần dần nhường chỗ cho cảnh đồng quê yên ả.
Đêm xuống, mọi người bắt đầu tính chuyện nghỉ ngơi. Những du khách Nhật đã tranh thủ bắt chuyện được với một em sinh viên người Việt. Cậu bé thật thà chia sẻ: “Người giàu đi máy bay còn bình dân đi tàu hoả dù mất nhiều thời gian”. Cậu thanh niên nằm tựa lưng vào ghế, vé của cậu là vé ngồi, ôm chiếc ba-lô trước ngực, giấc ngủ đến với tuổi trẻ thật dễ dàng.
Ngay trước khi tàu tới ga Đồng Hới lúc 5h sáng ngày 9/5, một bản nhạc nhẹ nhàng mang đặc trưng của âm nhạc dân gian Việt Nam vang lên, thật là cách đánh thức nhẹ nhàng đối với các hành khách đang say ngủ.
Mặt trời bắt đầu chiếu sáng. Những mái nhà ngói nâu đỏ, những cánh đồng lúa xanh rì bắt đầu hiện ra lấp lánh dưới ánh nắng mai.

Việc xây dựng tuyến tàu hoả Bắc - Nam bắt đầu từ năm 1899 tuy vậy tàu hoả không hoạt động trên tuyến đường này cho tới tận năm 1936.
Trong thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam, nhiều công trình đã bị tàn phá, tuyến đường này cũng bị ảnh hưởng nhiều. Đến năm 1976, nó được tu sửa lại. Trong lịch sử Việt Nam, tuyến đường sắt Bắc - Nam được coi như biểu tượng của sự thống nhất nước nhà. Còn nhớ khi chuyến tàu Thống Nhất đầu tiên lăn bánh, cả dân tộc như vỡ oà trong hạnh phúc.
Trong suốt những thập kỷ qua, thời lượng của chuyến tàu Nam Bắc đã giảm từ hơn 70 tiếng xuống còn khoảng 30 tiếng nếu điều kiện thời tiết thuận lợi. Sắp tới, thời gian sẽ còn được giảm thêm nữa.
Lúc 10h10 sáng ngày 9/5, tàu đi qua Đèo Hải Vân. Cảnh vật tuyệt đẹp, non nước hữu tình.

Những du khách Nhật Bản lại làm quen với một nữ du khách người Pháp đang mang trên lưng chiếc ba-lô to sụ. Người phụ nữ hào hứng nói: “Chuyến tàu này có một không khí thật đặc biệt, khác với những chuyến tàu mà tôi từng đi ở những đất nước khác. Tôi thấy rất thú vị, rất phấn khích”.
Ở miền Bắc, bầu trời mang sắc xám, hiu hiu buồn nhưng khi tàu đến miền Trung, trời đã rạng hẳn, đem lại cho du khách một trạng thái cảm xúc mới.
Sau khi chinh phục được những triền núi gập ghềnh, thành phố Đà Nẵng - trung tâm thương mại của các tỉnh miền Trung bắt đầu hiện ra.
Những chiếc xe đẩy chất đầy các hộp đựng đồ ăn trưa bắt đầu di chuyển dọc các khoang tàu. Hành khách có thể thoải mái lựa chọn món ăn phù hợp với khẩu vị của mình, giá cả cũng rất phải chăng.
Mỗi khi tàu dừng lại ở một ga nào đó, các du khách Nhật Bản lại thấy xuất hiện những người phụ nữ ôm thúng, bán các loại xôi gói trong những đọt lá xanh trông thật hấp dẫn.
Các du khách nước ngoài ai cũng háo hức muốn tranh thủ rời tàu để xuống quan sát, “ngó nghiêng” nhưng khoảng dừng ở mỗi ga chỉ kéo dài 5 phút vì vậy ai cũng sợ bị lỡ chuyến, cuối cùng, họ đành ngồi lại trên tàu, háo hức nhìn ngó.

Chẳng mấy chốc lại tới bữa tối và chiếc xe đẩy đồ ăn lại xuất hiện với hàng loạt những món ăn hấp dẫn mời chào. Mì gạo, phở và những món ăn đậm chất Việt Nam nhanh chóng được các khách du lịch nước ngoài lựa chọn.
Tiếp tục tiến xuống phía nam, con tàu băng qua những cánh đồng lúa xanh rì. Điều khiến các du khách Nhật đặc biệt ấn tượng chính là trên cánh đồng không chỉ có máy cày mà còn có cả những con trâu.
Hình ảnh con trâu kéo cày đã trở nên rất hiếm ở một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển hiện đại như nước Nhật. Người nông dân đội nón lá ra đồng, thấp thoáng những bóng nón trắng trên cánh đồng xanh, bên cạnh những con trâu cần mẫn. Cảnh vật thật yên bình, dễ chịu.
Một ngày nữa lại sắp kết thúc. Mặt trời sắp lặn hẳn. Ngay sau 9 giờ tối, một bản nhạc nhẹ nhàng lại vang lên như để ru ngủ hành khách. Cả đoàn tàu dần chìm vào giấc ngủ.
Đến 4h05 sáng ngày 10/5, tàu đến ga Sài Gòn. Qua cửa sổ toa tàu, du khách có thể nhìn thấy những toà nhà cao tầng mọc lên sừng sững ở thành phố lớn nhất và phát triển nhất Việt Nam. Trời vẫn chưa sáng hẳn.
Trên đoạn đường đi qua đèo Hải Vân, tàu bị chậm so với lịch trình 30 phút nhưng khi tới ga Sài Gòn, tàu vẫn đến sớm 5 phút, người lái tàu ra hồ hởi chào tạm biệt những du khách Nhật: “Tôi đã bảo các anh mà, không có vấn đề gì đâu, tàu sẽ đến ga cuối đúng giờ…”

Năm 2010, Việt Nam từng tính đến chuyện xây dựng đường tàu hoả siêu tốc nhưng ý định này đã không được triển khai bởi giá thành quá cao. Tuy vậy, được ngồi trên chuyến tàu Bắc - Nam, đoàn du khách Nhật Bản cũng đồng tình rằng nhanh hơn chưa chắc đã tốt hơn.
Chuyến tàu Bắc - Nam không chỉ là một sự dịch chuyển, nó thực sự là một chuyến hành hương, một chuyến đi chứa đựng bao điều thú vị, một trải nghiệm đáng nhớ mà mỗi người nên có trong đời.
Tác giả: Pi Uy/ Asahi Shimbun
Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013
Phát biểu của TT Nguyễn Tấn Dũng tại HN Sangri-La
Nguồn: VietNamNet: Giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đối thoại Sangri-La ngày 31/5/2013 (các tiêu đề phụ do VNNet đặt)
Ngôn ngữ và cách thể hiện dù có khác nhau, nhưng chắc chúng ta đều đồng ý với nhau: nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin. Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.
Trong thế kỷ 20, Đông Nam Á nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dương nói chung vốn là chiến trường ác liệt, bị chia rẽ sâu sắc trong nhiều thập kỷ. Có thể nói cả khu vực này luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình. Muốn có hòa bình, phát triển, thịnh vượng thì phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Nói cách khác, chúng ta cần cùng nhau chung tay xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của Châu Á - Thái Bình Dương.
Trước hết, Việt Nam chúng tôi có niềm tin sâu sắc vào tương lai tươi sáng trong hợp tác phát triển của khu vực, nhưng với xu thế tăng cường cạnh tranh và can dự - nhất là từ các nước lớn, thì bên cạnh những mặt tích cực cũng tiềm ẩn những rủi ro tiêu cực mà chúng ta cần phải cùng nhau chủ động ngăn ngừa.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động và là nơi tập trung ba nền kinh tế lớn nhất thế giới và nhiều nền kinh tế mới nổi. Xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc, đa lĩnh vực đang diễn ra hết sức sôi động và ngày càng thể hiện là xu thế chủ đạo. Điều này là cơ hội hết sức lạc quan cho tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, nhìn lại bức tranh toàn cảnh khu vực trong những năm qua, chúng ta cũng không khỏi quan ngại trước những nguy cơ và thách thức ngày càng lớn đối với hòa bình và an ninh.
Cạnh tranh và can dự vốn là điều bình thường trong quá trình hợp tác và phát triển. Nhưng nếu sự cạnh tranh và can dự đó mang những toan tính chỉ cho riêng mình, bất bình đẳng, trái với luật pháp quốc tế, thiếu minh bạch thì không thể củng cố lòng tin chiến lược, dễ dẫn tới chia rẽ, nghi kỵ và nguy cơ kiềm chế lẫn nhau, ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình, hợp tác và phát triển.
Những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ Biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực, trước hết là an ninh, an toàn và tự do hàng hải đang gây quan ngại sâu sắc đối với cả cộng đồng quốc tế. Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.
Tôi muốn lưu ý thêm rằng lưu thông trên biển chiếm tỷ trọng và có ý nghĩa ngày càng lớn. Theo nhiều dự báo, sẽ có trên 3/4 khối lượng hàng hóa thương mại toàn cầu được vận chuyển bằng đường biển và 2/3 số đó đi qua Biển Đông. Chỉ cần một hành động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián đoạn dòng hàng hóa khổng lồ này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả thế giới đều phải gánh chịu hậu quả khôn lường.
Trong khi đó, các nguy cơ xung đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, ly khai, bạo loạn, khủng bố, an ninh mạng… vẫn hiện hữu. Những thách thức mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, nước biển dâng; dịch bệnh; nguồn nước và lợi ích giữa các quốc gia thượng nguồn, hạ nguồn của các con sông chung… ngày càng trở nên gay gắt.
Có thể nhận thấy những thách thức và nguy cơ xung đột là không thể xem thường. Mọi người chúng ta đều hiểu, nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột quân sự, nhìn tổng thể thì sẽ không có kẻ thắng người thua - mà tất cả cùng thua. Vì vậy, cần khẳng định rằng, cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta. Đối với Việt Nam chúng tôi, lòng tin chiến lược còn được hiểu trên hết là sự thực tâm và chân thành.
Đề cao trách nhiệm các nước lớn
Thứ hai, để xây dựng lòng tin chiến lược, cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách nhiệm của các quốc gia - nhất là các nước lớn và nâng cao hiệu quả thực thi của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương.
Trong lịch sử thế giới, nhiều dân tộc đã phải gánh chịu những mất mát không gì bù đắp được khi là nạn nhân của tham vọng cường quyền, của xung đột, chiến tranh. Trong thế giới văn minh ngày nay, Hiến chương LHQ, luật pháp quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử chung đã trở thành giá trị của toàn nhân loại cần phải được tôn trọng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để xây dựng lòng tin chiến lược.
Mỗi quốc gia luôn phải là một thành viên có trách nhiệm đối với hòa bình và an ninh chung. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ cần có quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cao hơn là có lòng tin chiến lược vào nhau. Các nước lớn có vai trò và có thể đóng góp nhiều hơn, đồng thời có trách nhiệm lớn hơn trong việc tạo dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Mặt khác, tiếng nói đúng đắn cũng như sáng kiến hữu ích không phụ thuộc là của nước lớn hay nước nhỏ. Nguyên tắc hợp tác, đối thoại bình đẳng, cởi mở trong ASEAN, các diễn đàn do ASEAN khởi xướng và ngay Đối thoại Shangri-La của chúng ta cũng được hình thành và duy trì trên cơ sở tư duy đó.
Tôi hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Ngài Susilo Bambang Yudhoyono, Tổng thống nước CH Indonesia, tại diễn đàn này năm ngoái là các nước vừa và nhỏ có thể gắn kết cùng các nước lớn vào một cấu trúc bền vững ở khu vực. Tôi cũng đồng tình với ý kiến của Ngài Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long trong bài phát biểu tại Bắc Kinh tháng 9/2012 cho rằng sự hợp tác tin cậy và trách nhiệm giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ đóng góp tích cực cho lợi ích chung của khu vực. Chúng ta đều hiểu rằng Châu Á - Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả các nước trong và ngoài khu vực cùng hợp tác và chia sẻ lợi ích. Tương lai của Châu Á - Thái Bình Dương đã và sẽ tiếp tục được tạo dựng bởi vai trò và sự tương tác của tất cả các quốc gia trong khu vực và cả thế giới, nhất là các nước lớn và chắc chắn trong đó không thể thiếu vai trò của ASEAN.
Tôi tin rằng các nước trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất) đối với tương lai quan hệ của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới. Điều quan trọng là sự kỳ vọng đó cần được củng cố bằng lòng tin chiến lược và lòng tin chiến lược cần được thể hiện thông qua những hành động cụ thể mang tính xây dựng của các quốc gia này.
Chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta trông đợi và ủng hộ Hoa Kỳ và Trung Quốc khi mà các chiến lược, các việc làm của hai cường quốc này tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia, vừa đem lại lợi ích cho chính mình, đồng thời đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng chung.
Tôi muốn nhấn mạnh thêm là, các cơ chế hợp tác hiện có trong khu vực như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)… cũng như Đối thoại Shangri-La đã tạo ra nhiều cơ hội để đẩy mạnh hợp tác an ninh đa phương và tìm giải pháp cho những thách thức đang đặt ra. Nhưng có thể nói rằng, vẫn còn thiếu – hay ít nhất là chưa đủ - lòng tin chiến lược trong việc thực thi các cơ chế đó. Điều quan trọng trước hết là phải xây dựng sự tin cậy lẫn nhau trước các thử thách, các tác động và trong tăng cường hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực, các tầng nấc, cả song phương và đa phương. Một khi có đủ lòng tin chiến lược, hiệu quả thực thi của các cơ chế hiện có sẽ được nâng lên và chúng ta có thể đẩy nhanh, mở rộng hợp tác, đi đến giải pháp về mọi vấn đề, cho dù là nhạy cảm và khó khăn nhất.
ASEAN - người trung gian thực tâm
Thứ ba, nói đến hòa bình, ổn định, hợp tác, thịnh vượng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, chúng ta không thể không nói đến một ASEAN đồng thuận, đoàn kết và với vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương.
Khó có thể hình dung được một Đông Nam Á chia rẽ, xung đột trong Chiến tranh Lạnh lại có thể trở thành một cộng đồng các quốc gia thống nhất trong đa dạng và đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc đang định hình ở khu vực như ASEAN ngày nay. Sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN năm 1995 đánh dấu thời kỳ phát triển mới của ASEAN, tiến tới hình thành một ngôi nhà chung của tất cả các quốc gia Đông Nam Á đúng với tên gọi của mình. Thành công của ASEAN là thành quả của cả quá trình kiên trì xây dựng lòng tin và văn hóa đối thoại, hợp tác cũng như ý thức trách nhiệm chia sẻ vận mệnh chung giữa các nước Đông Nam Á.
ASEAN tự hào là một hình mẫu của nguyên tắc đồng thuận và lòng tin vào nhau trong các quyết định của mình. Đó là nền tảng tạo sự bình đẳng giữa các thành viên cho dù là một Indonesia với dân số gần 1/4 tỷ người và một Brunei với dân số chưa đến nửa triệu người. Đó cũng là cơ sở để các nước ngoài khu vực gửi gắm lòng tin vào ASEAN với tư cách là “người trung gian thực tâm” trong vai trò dẫn dắt nhiều cơ chế hợp tác khu vực.
Với tư duy cùng chia sẻ lợi ích, không phải “kẻ được – người mất”, việc mở rộng Cấp cao Đông Á (EAS) mời Nga và Hoa Kỳ tham gia, tiến trình ADMM+ đã được hiện thực hóa tại Việt Nam năm 2010 và thành công của EAS, ARF, ADMM+ những năm tiếp theo đã củng cố hơn nữa nền tảng cho một cấu trúc khu vực với ASEAN đóng vai trò trung tâm, đem lại niềm tin vào tiến trình hợp tác an ninh đa phương của khu vực này.
Tôi cũng muốn đề cập trường hợp của Myanmar như một ví dụ sinh động về kết quả của việc kiên trì đối thoại trên cơ sở xây dựng và củng cố lòng tin, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau, mở ra một tương lai tươi sáng không chỉ cho Myanmar mà cho cả khu vực chúng ta.
Đã có những bài học sâu sắc về giá trị nền tảng của nguyên tắc đồng thuận, thống nhất của ASEAN trong việc duy trì quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với các nước đối tác và phát huy vai trò chủ động của ASEAN trong những vấn đề chiến lược của khu vực. ASEAN chỉ mạnh và phát huy được vai trò của mình khi là một khối đoàn kết thống nhất. Một ASEAN thiếu thống nhất sẽ tự đánh mất vị thế và không có lợi cho bất cứ một ai, kể cả các nước ASEAN và các nước đối tác. Chúng ta cần một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, hợp tác hiệu quả với tất cả các nước để chung tay vun đắp hòa bình và thịnh vượng ở khu vực, chứ không phải là một ASEAN mà các quốc gia thành viên buộc phải lựa chọn đứng về bên này hay bên kia vì lợi ích của riêng mình trong mối quan hệ với các nước lớn. Trách nhiệm của chúng ta là nhân thêm niềm tin trong giải quyết các vấn đề, trong tăng cường hợp tác cùng có lợi, kết hợp hài hòa lợi ích của quốc gia mình với lợi ích của quốc gia khác và của cả khu vực.
Việt Nam cùng các nước ASEAN luôn mong muốn các nước - đặc biệt là các nước lớn, ủng hộ vai trò trung tâm, nguyên tắc đồng thuận và sự đoàn kết thống nhất của cộng đồng ASEAN.
Trở lại vấn đề Biển Đông, ASEAN và Trung Quốc đã cùng nhau vượt qua một chặng đường khá dài và cũng không ít khó khăn để ra được Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Phnom Penh năm 2002. Nhân kỷ niệm 10 năm ký và thực hiện DOC, các bên đã thống nhất nỗ lực tiến tới Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược, trước hết là thực hiện nghiêm túc DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS).
Chúng tôi cho rằng, ASEAN và các nước đối tác có thể cùng nhau xây dựng một cơ chế khả thi để bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải trong khu vực. Làm được như vậy sẽ không chỉ góp phần đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và tạo điều kiện để giải quyết các tranh chấp, mà còn khẳng định những nguyên tắc cơ bản trong việc gìn giữ hòa bình, tăng cường hợp tác, phát triển của thế giới đương đại.
Đối với các vấn đề an ninh phi truyền thống và các thách thức khác – trong đó có an ninh nguồn nước trên các dòng sông chung, bằng việc xây dựng lòng tin chiến lược, tăng cường hợp tác, hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chung, tôi tin rằng chúng ta cũng sẽ đạt được những thành công, đóng góp thiết thực vào hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực.
Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác
Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. Việt Nam luôn khao khát hòa bình và mong muốn đóng góp vào việc củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để có một nền hòa bình thực sự và bền vững, thì độc lập, chủ quyền của các quốc gia dù lớn hay nhỏ cần phải được tôn trọng; những khác biệt về lợi ích, văn hóa… cần được đối thoại cởi mở trên tinh thần xây dựng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
Chúng ta không quên, nhưng cần khép lại quá khứ để hướng tới tương lai. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam không ngừng nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia. Chúng tôi mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ một khi nguyên tắc độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi được cam kết và nghiêm túc thực hiện.
Nhân diễn đàn quan trọng này, tôi trân trọng thông báo, Việt Nam đã quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc, trước hết là trong các lĩnh vực công binh, quân y, quan sát viên quân sự.
Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác.
Những năm qua, việc duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao đã tạo điều kiện cho Việt Nam tăng ngân sách quốc phòng ở mức hợp lý. Việc hiện đại hóa quân đội của Việt Nam chỉ nhằm tự vệ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, không nhằm vào bất cứ quốc gia nào.
Đối với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Một lần nữa, Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông; nỗ lực làm hết sức mình cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982.
-----
Hòa bình, hợp tác và phát triển là lợi ích, là nguyện vọng tha thiết, là tương lai chung của các quốc gia, các dân tộc. Trên tinh thần cởi mở của Đối thoại Shangri-La, tôi kêu gọi tất cả chúng ta bằng những hành động cụ thể hãy cùng chung tay xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì một Châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, hợp tác, thịnh vượng.( Theo Cổng TTĐT Chính phủ)
Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013
Vừa ăn cướp vừa la làng
Tuổi trẻ ngày 18/4/2013 – Chính phủ Trung Quốc vừa có màn trình diễn về “tính minh bạch” trong quốc phòng bằng việc công bố Sách trắng dài 40 trang. Lần đầu tiên từ năm 2011, Bắc Kinh đưa ra những chi tiết về quy mô và cơ cấu các lực lượng vũ trang của nước này.
![]() |
Người phát ngôn Bộ QP TQ công bố Sách trắng quốc phòng 2013 – Ảnh: Reuters. |
Đây là một tài liệu phục vụ tuyên truyền đối ngoại, lời lẽ mềm mỏng hơn giọng điệu nặng tính chỉ trích đối với các đối thủ trên nhật báo Quân Giải Phóng ra cùng ngày. Sách trắng cho thấy mấy điểm đáng chú ý.
Thứ nhất, Sách trắng ám chỉ Mỹ là bên đang gây nên “sự căng thẳng ở châu Á – Thái Bình Dương bằng cách tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực và củng cố quan hệ với các đồng minh”. Mặc dù Bắc Kinh không nêu đích danh Mỹ nhưng thông điệp này là không thể nhầm lẫn, nhất là khi liên kết nó với nhận định trong chương I về tình hình nhiệm vụ.
Sách trắng này nêu rõ: “Mỹ đang điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương và bối cảnh khu vực đang trải qua những biến đổi sâu sắc”. Việc giảm thiểu giọng điệu chỉ trích Mỹ phù hợp với chủ trương của Bắc Kinh là tìm cách lôi kéo và cải thiện quan hệ với Mỹ khi vừa diễn ra chuyến thăm của Ngoại trưởng John Kerry.
Chủ trương này được Sách trắng nêu: “Trung Quốc theo đuổi quan niệm mới về an ninh, dựa trên sự tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, bình đẳng và theo đuổi an ninh tổng thể và hợp tác an ninh chung”. Điều đó cho thấy Bắc Kinh đang tìm kiếm một khuôn khổ mới cho quan hệ an ninh với các nước lớn, trước hết là với Mỹ. Còn quan niệm mới này có liên quan gì đến quan hệ với các nước khác (và nhỏ hơn) thì cần phải theo dõi kỹ những gì Trung Quốc làm.
Thứ hai, Sách trắng nêu bật vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ biển đảo, trong đó cho rằng “một số nước láng giềng đang có những hành động làm phức tạp và trầm trọng thêm tình hình, và Nhật đang gây rối xung quanh vấn đề đảo Điếu Ngư”.
Sở dĩ Sách trắng nhấn mạnh đến các thách thức từ phía hai nước lớn Mỹ và Nhật chủ yếu là để biện minh cho việc Trung Quốc tiếp tục tăng ngân sách quốc phòng hai chữ số hằng năm. Thế nhưng, việc Bắc Kinh đổ lỗi cho các nước láng giềng giáp biển làm cho tình hình thêm căng thẳng và nghiêm trọng thì chẳng khác nào “vừa ăn cướp vừa la làng”. Thái độ này càng đáng lên án nếu xét đến việc thời gian qua lực lượng hải giám Trung Quốc thường xuyên dùng vũ lực trấn áp ngư dân của các nước ven biển Đông.
Sách trắng cũng không quên nhắc lại luận điệu cũ rích là Trung Quốc “chống lại bá quyền và chính trị cường quyền nước lớn” và “sẽ không bao giờ tìm kiếm bá quyền hoặc cư xử bá quyền”. Thế nhưng, kể từ khi điều này được tuyên bố một cách long trọng tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 17 (2007) thì Trung Quốc đã đưa cuộc xung đột trên biển Đông lên cường độ cao.
Và kể từ khi nó được lặp lại tại Đại hội 18 (2012), Trung Quốc vẫn tiếp tục đẩy mạnh tranh chấp, khai thác trên biển Đông. Với quy định từ ngày 1-1-2013 “chặn tàu, khám tàu, trục xuất tàu” nước ngoài đi vào biển Đông, Bắc Kinh đã bộc lộ ý đồ thiết lập một trật tự trên biển Đông do Trung Quốc chủ đạo.
Thứ ba, Sách trắng tiếp tục khẳng định “kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia cốt lõi” khi nêu rõ “Trung Quốc là một cường quốc hải dương cũng như trên đất liền” và hải quân Trung Quốc có nhiệm vụ hỗ trợ việc thực thi luật biển của Trung Quốc, đánh cá và khai thác dầu khí; “tuần tra và quản lý hải giới ở vịnh Bắc bộ và khu vực biển Hoàng Sa” (Trung Quốc gọi là Tây Sa).
Điểm được nhấn mạnh trong Sách trắng là hải quân Trung Quốc cần mở rộng phạm vi hoạt động nhằm bảo vệ “những lợi ích hải ngoại của Trung Quốc đã trở thành một bộ phận cấu thành các lợi ích quốc gia của Trung Quốc”, trong đó có việc “đảm bảo an ninh cho vận chuyển năng lượng và tài nguyên, các tuyến đường biển chiến lược, cũng như cho công dân và quyền lợi người Trung Quốc ở hải ngoại”.
Bổ sung cho những quan điểm được nêu trong Sách trắng, tướng Trần Châu – giám đốc Học viện Quân sự Bắc Kinh – viết trên China Daily (ngày 17-4): “Các lợi ích an ninh của Trung Quốc kéo dài từ đất liền ra biển cả, lên khoảng không vũ trụ, không gian mạng, từ an ninh lãnh thổ tới các lợi ích hải ngoại, và từ các khu vực truyền thống tới các lĩnh vực phi truyền thống”.
Thứ tư, chương IV của Sách trắng đề cao vai trò quân đội như lực lượng quan trọng “duy trì ổn định xã hội” và “trật tự xã hội”. Với việc tăng ngân sách quốc phòng cùng thực thi những mục tiêu đầy tham vọng về đối nội và đối ngoại, vai trò quân đội được tăng cường một bước đáng kể cùng với việc xác lập quyền lực của thế hệ lãnh đạo thứ năm tại Trung Quốc. Đây là thời đại quân đội lên ngôi ở Trung Quốc.
Với vai trò ngày càng lớn ấy, quân đội Trung Quốc chắc sẽ tạo ra nhiều phức tạp cho quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước láng giềng.
TS Nguyễn Ngọc Trường
Thứ nhất, Sách trắng ám chỉ Mỹ là bên đang gây nên “sự căng thẳng ở châu Á – Thái Bình Dương bằng cách tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực và củng cố quan hệ với các đồng minh”. Mặc dù Bắc Kinh không nêu đích danh Mỹ nhưng thông điệp này là không thể nhầm lẫn, nhất là khi liên kết nó với nhận định trong chương I về tình hình nhiệm vụ.
Sách trắng này nêu rõ: “Mỹ đang điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương và bối cảnh khu vực đang trải qua những biến đổi sâu sắc”. Việc giảm thiểu giọng điệu chỉ trích Mỹ phù hợp với chủ trương của Bắc Kinh là tìm cách lôi kéo và cải thiện quan hệ với Mỹ khi vừa diễn ra chuyến thăm của Ngoại trưởng John Kerry.
Chủ trương này được Sách trắng nêu: “Trung Quốc theo đuổi quan niệm mới về an ninh, dựa trên sự tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, bình đẳng và theo đuổi an ninh tổng thể và hợp tác an ninh chung”. Điều đó cho thấy Bắc Kinh đang tìm kiếm một khuôn khổ mới cho quan hệ an ninh với các nước lớn, trước hết là với Mỹ. Còn quan niệm mới này có liên quan gì đến quan hệ với các nước khác (và nhỏ hơn) thì cần phải theo dõi kỹ những gì Trung Quốc làm.
Thứ hai, Sách trắng nêu bật vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ biển đảo, trong đó cho rằng “một số nước láng giềng đang có những hành động làm phức tạp và trầm trọng thêm tình hình, và Nhật đang gây rối xung quanh vấn đề đảo Điếu Ngư”.
Sở dĩ Sách trắng nhấn mạnh đến các thách thức từ phía hai nước lớn Mỹ và Nhật chủ yếu là để biện minh cho việc Trung Quốc tiếp tục tăng ngân sách quốc phòng hai chữ số hằng năm. Thế nhưng, việc Bắc Kinh đổ lỗi cho các nước láng giềng giáp biển làm cho tình hình thêm căng thẳng và nghiêm trọng thì chẳng khác nào “vừa ăn cướp vừa la làng”. Thái độ này càng đáng lên án nếu xét đến việc thời gian qua lực lượng hải giám Trung Quốc thường xuyên dùng vũ lực trấn áp ngư dân của các nước ven biển Đông.
Sách trắng cũng không quên nhắc lại luận điệu cũ rích là Trung Quốc “chống lại bá quyền và chính trị cường quyền nước lớn” và “sẽ không bao giờ tìm kiếm bá quyền hoặc cư xử bá quyền”. Thế nhưng, kể từ khi điều này được tuyên bố một cách long trọng tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 17 (2007) thì Trung Quốc đã đưa cuộc xung đột trên biển Đông lên cường độ cao.
Và kể từ khi nó được lặp lại tại Đại hội 18 (2012), Trung Quốc vẫn tiếp tục đẩy mạnh tranh chấp, khai thác trên biển Đông. Với quy định từ ngày 1-1-2013 “chặn tàu, khám tàu, trục xuất tàu” nước ngoài đi vào biển Đông, Bắc Kinh đã bộc lộ ý đồ thiết lập một trật tự trên biển Đông do Trung Quốc chủ đạo.
Thứ ba, Sách trắng tiếp tục khẳng định “kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia cốt lõi” khi nêu rõ “Trung Quốc là một cường quốc hải dương cũng như trên đất liền” và hải quân Trung Quốc có nhiệm vụ hỗ trợ việc thực thi luật biển của Trung Quốc, đánh cá và khai thác dầu khí; “tuần tra và quản lý hải giới ở vịnh Bắc bộ và khu vực biển Hoàng Sa” (Trung Quốc gọi là Tây Sa).
Điểm được nhấn mạnh trong Sách trắng là hải quân Trung Quốc cần mở rộng phạm vi hoạt động nhằm bảo vệ “những lợi ích hải ngoại của Trung Quốc đã trở thành một bộ phận cấu thành các lợi ích quốc gia của Trung Quốc”, trong đó có việc “đảm bảo an ninh cho vận chuyển năng lượng và tài nguyên, các tuyến đường biển chiến lược, cũng như cho công dân và quyền lợi người Trung Quốc ở hải ngoại”.
Bổ sung cho những quan điểm được nêu trong Sách trắng, tướng Trần Châu – giám đốc Học viện Quân sự Bắc Kinh – viết trên China Daily (ngày 17-4): “Các lợi ích an ninh của Trung Quốc kéo dài từ đất liền ra biển cả, lên khoảng không vũ trụ, không gian mạng, từ an ninh lãnh thổ tới các lợi ích hải ngoại, và từ các khu vực truyền thống tới các lĩnh vực phi truyền thống”.
Thứ tư, chương IV của Sách trắng đề cao vai trò quân đội như lực lượng quan trọng “duy trì ổn định xã hội” và “trật tự xã hội”. Với việc tăng ngân sách quốc phòng cùng thực thi những mục tiêu đầy tham vọng về đối nội và đối ngoại, vai trò quân đội được tăng cường một bước đáng kể cùng với việc xác lập quyền lực của thế hệ lãnh đạo thứ năm tại Trung Quốc. Đây là thời đại quân đội lên ngôi ở Trung Quốc.
Với vai trò ngày càng lớn ấy, quân đội Trung Quốc chắc sẽ tạo ra nhiều phức tạp cho quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước láng giềng.
TS Nguyễn Ngọc Trường
Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013
Ai thực sự kiểm soát Biển Đông?
![]() |
Một cảnh tập trận của Hạm đội Nam Hải (ảnh của CCTV) |
![]() |
Một ngư dân VN trong khoang tàu bị Trung Quốc bắn cháy |
Khách quan mà nói, hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà xảy ra các vụ rượt đuổi và bắn cháy tàu cá như vậy; toàn bộ đều nằm trong khuôn khổ của đợt tập trận của hải quân Trung Quốc tại Biển Đông. Xét về mọi phương diện, việc tập trận như vậy là vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Tường Sa, nơi mà cho đến nay chưa hề có nước nào công nhận là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, và cả thế giới đều biết Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa năm1974, rồi chiếm một số đảo tại Trường Sa năm1988. Do đó, có thể khẳng định mọi sự chiếm đóng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Biển Đông đều là phi pháp, và tàu bè Trung Quốc chỉ có một quyền hợp pháp duy nhất là "đi lại vô hại" trên Biển Đông mà thôi. Tuy nhiên lâu nay phía Trung Quốc cậy thế mạnh của nước lớn không những cho tập trận bừa bãi mà còn rất nhiều lần xâm hại tài sản và tính mạng của ngư dân Việt Nam, Philipine và các nước khác ven Biển Đông ngay bên trong những vùng ngư trường truyền thống của họ. Mọi việc làm của phía Trung Quốc đều nhằm mục đích thâm độc là "biến không thành có" để thiết lập quyền kiểm soát trên thực tế và tiến tới độc chiếm toàn bộ Biển Đông.
Nhận xét về âm mưu này của TQ, một phân tích gia phương Tây mới đây nói như sau:
"Trung Quốc đang xây dựng vị trí bất khả thách thức của mình tại Hoàng Sa trong khi khẳng định chủ quyền đối với Trường Sa thông qua việc tăng cường sự có mặt trên biển bằng các hạm đội hải quân và không quân.
So với thời kỳ mà sự chiếm đóng cụ thể tại các đảo có nghĩa là tất cả, thì giờ đây TQ chuyển chiến lược sang cách thống trị bằng sức mạnh hàng hải".... "Họ sẽ có thể thống trị khu vực bất kể là đảo hay biển và điều này sẽ cho phép họ tăng cường và bảo vệ bất cứ mọi nỗ lực nhằm khai thác dầu khí tại đây trong những năm tới”.
Ông này còn nói thêm: “Chừng nào Việt Nam chưa bố trí các trận địa tên lửa đạn đạo và tăng cường các hệ thống ra đa dày đặc tại các đảo của mình, hoặc hợp tác thật chặt chẽ với Mĩ , thì TQ có thể tiếp tục với chiến lược nói trên”.
Tuy nhiên, về phần mình, do những lý do cố hửu,Việt Nam luôn đề cao ý thức tự kiềm chế tránh đụng độ với Trung Quốc. Với phương châm đó, mọi bước đi đều được thận trọng cân nhắc kĩ và quyết định từ cấp cao nhất của Việt Nam. Nhưng thực tế ngày càng cho thấy thái độ kèm chế của phía Việt Nam thường không được phía Trung Quốc quý trọng, trái lại còn lợi dụng hoặc phản bội khiến Việt Nam ngày càng thất thế. Mới đây Thiếu tướng về hưu Lê Văn Cương có đúc kết rằng Trung Quốc đã 5 lần phản bội Việt Nam, đó là những lần phản bội vô cùng tai hai mà người Việt Nam ai cũng biết. Tuy vậy người Trung Quốc chưa bao giờ chịu nhận lỗi trước người Việt Nam, kể cả vụ bắn cháy tàu cá mới đây nhất,NgườiPhát ngôn NG Trung Quốc đã chính thức lên tiếng biện minh đó là "hành động chính đáng"(!?). Nếu đã có một lần xin lỗi, đó là khi Mao Trạch Đông bày tỏ với Lãnh đạoViệt Nam thời kỳ còn là "môi hở răng lạnh" lấy làm tiếc về ách đô hộ tàn bạo của các Vương triều phong kiến xưa kia. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên truyền sáo rỗng như đã được minh chứng bằng 5 lần phản bội Việt Nam của bản thân ông ta và những kẻ kế vị sau này. Sống bên cạnh một cường quốc như Trung Quốc, không phải chỉ Việt Nam mà tất cả các nước xung quanh đều là nạn nhân của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Cậy sức mạnh và số đông, phía Trung Quốc không muốn "chơi theo luật" nhằm dẽ bề thao túng và chén ép từng nước nhỏ yếu hơn mình.
Giờ đây người Việt Nam không khỏi chạnh lòng nhớ lại những "ngày xưa tươi đẹp" (happy old days) khi làm chủ biển đảo của mình và dân chài được tự do vươn khơi ra lộng quăng chài kéo lưới ... Nhưng bây giờ vừa mới dong buồm đã gặp "tàu lạ" ngay trước cửa! Chúng xuất hiện ở khắp mọi nơi nhanh như kẻ cướp, mạnh như kẻ điên khùng, ngày đêm ráo riết lùng sục rượt đuổi cướp phá ngay bên trong vùng đặc quyền kinh tế, chứ không chỉ trong vùng ngư trường bao đời của cha ông để lại. Chúng lăm lăm vòi rồng, súng phun lửa và cả đại pháo để trấn áp những con thuyền đánh cá nhỏ nhoi bất chấp sinh mạng con người trên đó. Thực chất đó là những hành động khủng bố quốc tế trá hình bất chấp luật lệ quốc tế. Nhưng quốc tế thì tỏ ra bất lực trước một nước Trung Quốc tràn đầy khát khao bành trướng thế lực.Vậy đâu là sức mạnh của thời đại như chính người Việt Nam vẫn thường đề cao từ kinh nghiệm của chính mình? Phải chăng sức mạnh thời đại ngày nay nằm ở luật pháp quốc tế, điều mà Việt Nam có nhiều lợi thế nhưng chưa tận dụng? Phàm cái gì kẻ thù lo sợ, cái đó là điểm yếu của họ. Vậy muốn tránh chiến tranh nóng, Việt Nam cần phát huy đầy đủ lợi thế pháp lý của mình trước khi quá muộn. Hơn lúc nào hết, đây là lúc Việt Nam cần rút ra bài học từ quá khứ và kết hợp với những nhân tố mới của sức mạnh thời đại ./.
Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013
Vì sao Nhật kết thân với Đông Nam Á?
Không lâu sau khi nhậm chức, tân thủ tướng Nhật Bản Abe và ngoại trưởng của ông công du ngang dọc 6 nước Đông Nam Á trong các chuyến công du đầu tiên. Điều gì thúc đẩy Nhật Bản quan tâm đến khu vực này đến thế?
Có tới ba trong số bốn quốc gia mà ngoại trưởng mới của Nhật là Fumio Kishida chọn thăm đầu tiên thuộc Hiệp hội các nước Đông Nam Á, gồm Philippines, Singapore và Brunei. Bản thân thủ tướng Shinzo Abe, trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của mình, dù không định trước và vì hoàn cảnh phải hoãn chuyến đi Mỹ, đã chọn Việt Nam, Thái Lan và Indonesia để dừng chân.
Mối quan tâm và vai trò của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á không phải là mới, và không chỉ vì mối bận tâm hiện nay về sự vươn lên của Trung Quốc. Trên thực tế, Nhật Bản từ lâu đã là một trong những đối tác đối thoại lâu đời nhất và quan trọng nhất của ASEAN. Mối quan hệ bắt đầu trở nên nồng ấm vào đầu năm 1977, khi Thủ tướng Takeo Fukuda ngay sau khi được bầu đã quyết định cải thiện hình ảnh của Tokyo trong khu vực, vốn bị sự chiếm đóng của Nhật Bản trong Thế chiến II làm phương hại. Kể từ đó, Nhật Bản đã đóng một vai trò nổi bật trong khu vực Đông Nam Á thông qua trợ giúp kinh tế, kinh doanh và văn hóa. Vai trò này vẫn được duy trì khi xuất hiện các nhân tố khác như Trung Quốc và các khó khăn kinh tế của Nhật.
![]() |
Việt Nam là điểm đến đầu tiên trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Abe kể từ khi lên nhậm chức thủ tướng tháng trước.Ảnh: AFP |
Thực tế là sự quy tụ của các sự kiện đang làm cho năm 2013 trở thành năm quan trọng cho nỗ lực củng cố quan hệ giữa Nhật Bản và các nước ở Đông Nam Á. Về hình thức, đây là năm kỷ niệm 40 năm quan hệ ASEAN-Nhật Bản. Do đó, trong những tháng tới người ta có thể tiên liệu sẽ có nhiều trao đổi đoàn và các sự kiện hơn hàng năm giữa Tokyo và các nước Đông Nam Á, giống như những gì ASEAN và Ấn Độ đã làm năm 2012 để kỷ niệm 20 năm quan hệ giữa hai bên.
Điều quan trọng hơn là danh sách những mối quan tâm chung giữa Nhật Bản và Đông Nam Á giờ đây được cho là dài hơn trước rất nhiều. Về kinh tế, Nhật Bản đang tìm kiếm thị trường mới, trong lúc đang lún vào suy thoái kinh tế lần thứ 4 kể từ năm 2000 và quan hệ với Trung Quốc đang xấu đi. Trong khi đó ASEAN đang tìm kiếm đối tác để giúp xây dựng một cộng đồng kinh tế ASEAN toàn diện vào năm 2015 thông qua việc cấp vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng. Thí dụ, trong chuyến thăm của Abe đến Bangkok, Thủ tướng Yingluck Shinawatra của Thái Lan đã tái khẳng định mong muốn Nhật Bản can dự vào dự án xây dựng cảng Dawei mà Thái Lan đang cùng phát triển với Myanmar, một sáng kiến mà phía Nhật Bản cũng bày tỏ qua tâm.
Về lĩnh vực an ninh, cả Nhật Bản và nhiều nước ở Đông Nam Á hiện đang có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, bên canh đó còn có một loạt các quan tâm sống còn về an ninh chung từ thảm họa thiên nhiên đến buôn bán ma túy và khủng bố. Việc Nhật Bản cung cấp 10 tầu tuần tra để tăng cường lực lượng bảo vệ bờ biển của Philippines trước năm 2014 là một điểm trao đổi chính trong cuộc gặp giữa Kishida với Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Albert del Rosario. Quan hệ Nhật-Philippines là một quan hệ quan trọng vì Tokyo là một trong hai đối tác chiến lược duy nhất của Philippines và cả hai nước đều là đồng minh của Mỹ. Về mặt biểu tượng, Manila là nơi cựu thủ tướng Fukuda đưa ra tuyên bố nổi tiếng của ông vào tháng 8 năm 1977 về quan hệ ASEAN-Nhật Bản, và về sau đã được biết đến là Học thuyết Fukuda.
Một số lĩnh vực khác cũng có thể chứng kiến sự phát triển trong quan hệ ASEAN-Nhật Bản trong năm 2013. An ninh năng lượng có thể sẽ được nhấn mạnh vì vấn đề có tầm quan trọng sống còn đối với việc thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN, và đồng thời là một ưu tiên cao đối với Brunei, nước sẽ giữ chức chủ tịch ASEAN năm nay. Tiến bộ có thể cũng sẽ đạt được trong lĩnh vực an ninh mạng vì cả hai bên đều dễ bị tổn thương trược các cuộc tấn công của tin tặc. Có thông tin hai bên đã bắt đầu các cuộc trao đổi về việc thiết lập một mạng lưới phòng thủ mạng chung.
Con đường cụ thể để tăng cường quan hệ giữa Nhật Bản và các nước Đông Nam Á sẽ được hai bên thiết lập trong những tháng tới. Nhưng nhu cầu hợp tác, không chỉ vì Trung Quốc mà bao gồm một loạt các lĩnh vực, là rất rõ ràng. Mối quan hệ tăng tiến giữa ASEAN với Nhật Bản chắc chắn sẽ là một xu hướng rõ rệt của năm 2013.
![]() |
Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida (phải) sau cuộc gặp người đồng cấp Philippines Albert del Rosario tại Manila hôm 10/1. Ảnh: AFP |
Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013
Việt Nam trong cuộc chơi quyền lực Mỹ - Trung(*)
(*)Đó là tiêu đề bài viết của một tác giar Mĩ đăng trên American Review Magazin. Nhận thấy bài viết đưa ra môt cách nhìn khách quan về một chủ đề đáng quan tâm hàng đầu của Việt Nam và khu vực hiện nay Bách Việt xin giới thiệu lại để có thêm bạn đọc đồng thời để làm tư liệu tham khảo cho bản thân.
Liệu Việt Nam có thể vun đắp mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ mà không giẫm lên chân Trung Quốc?
Đầu năm 1833, một phái đoàn Mỹ do Edmund Roberts dẫn đầu đã tới Việt Nam trên chiếc chiến hạm nhẹ USS Peacock neo đậu tại vịnh Vũng Lắm, ngoài khơi tỉnh Phú Yên ngày nay. Với tư cách là một "điệp viên bí mật đặc biệt" của Tổng thống Andrew Jackson, Roberts đã đề xuất ký kết một hiệp định thương mại với nhà Nguyễn nhưng sứ mệnh không hoàn thành do những hiểu lầm từ rào cản ngôn ngữ và chính sách bế quan tỏa cảng lúc bấy giờ của Việt Nam gây ra.
Hai nước đã phải mất 166 năm sau mới có thể đi đến một hiệp định thương mại song phương. Nhiệm vụ dang dở của Roberts là một trong nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, mà ngay từ ngày đầu hai bên bắt đầu có những sự tiếp xúc, đã ngăn cản Việt Nam và Mỹ tạo dựng một mối quan hệ vững chắc hơn.
Thế kỷ 20, việc các tương tác kinh tế nghèo nàn cùng những điều kiện bất lợi trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã càng đẩy hai nước rời xa nhau. Việt Nam đã không may mắn khi ở giữa một cuộc đối đầu chiến lược cam go giữa hai khối Đông - Tây khi Chiến tranh lạnh diễn ra mạnh mẽ hơn vào những năm 1950. Khi các chiến sĩ Cộng sản Việt Nam đánh bại quân Pháp và tiến tới thống nhất cả nước vào năm 1954, họ đã vấp phải một chính sách kiềm chế chống cộng sản của phương Tây mà Mỹ là người đứng đầu. Trong khi đó, khối Cộng sản tiếp nhận Việt Nam như một "tiền đồn chống chủ nghĩa đế quốc" ở Đông Nam Á. Cuối cùng, Việt Nam và Mỹ đã rơi vào một cuộc chiến khốc liệt để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử hai nước.
Kết thúc chiến tranh, hai nước phải mất thêm hai thập niên nữa để hàn gắn và bình thường hóa quan hệ, điều mà chỉ đạt được vào năm 1995. Kể từ khi đó, mối quan hệ đã phát triển với tốc độ khiến nhiều nhà quan sát bất ngờ. Mỹ hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất và nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 10 của Việt Nam. Quan hệ chính trị cũng vươn tới tầm cao mà cải hai bên đều mong muốn nâng lên tầm quan hệ đối tác chiến lược. Trong khi đó, quan hệ quân sự dù còn khiêm tốn nhưng cũng đang được thắt chặt. Chuyến thăm lịch sử của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tới vịnh Cam Ranh hôm 3/6/2012 chứng minh cho mối quan hệ đang ngày một nồng ấm giữa hai nước.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào bối cảnh lịch sử, với bất cứ ai quan tâm đến mối quan hệ Việt - Mỹ cũng nên xem xét hai câu hỏi quan trọng. Trước hết, do vịnh Cam Ranh cách không xa vịnh Vũng Lắm, chuyến thăm của Panetta gợi lại sứ mệnh của Roberts năm 1833. Liệu Việt Nam sẽ chớp lấy cơ hội từ sự tái quan tâm của Mỹ đến mình để đảm bảo một mối quan hệ vững chắc hơn với siêu cường số một thế giới, hay sẽ lại để nó trôi qua, như những gì triều đình Huế đã làm vào năm 1833?
Thứ hai, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược đang gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc, một mối quan hệ Việt-Mỹ mạnh mẽ hơn sẽ khó tránh khỏi gây tổn hại đến quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. Vậy Việt Nam sẽ rơi vào cuộc Chiến tranh lạnh 2.0 và lại trở thành nạn nhân của một cuộc chơi quyền lực mới?
Không giống như thời nhà Nguyễn, Việt Nam ngày nay đã là một quốc gia mở cửa hơn nhiều. Cải cách kinh tế từ những năm 1980 đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Về mặt này, Việt Nam coi Mỹ là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu. Đầu tư từ các tập đoàn công nghệ cao của Mỹ như Intel đã mở đường cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn giúp Việt Nam vươn lên tầm cao mới trong chuỗi giá trị và tạo dựng một nền kinh tế sáng tạo, hiệu quả. Do vậy, Việt Nam muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế với Mỹ. Quyết định tham gia đàm phán về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương là một minh chứng cho điều đó.
Tuy nhiên, việc Việt Nam tích cực cải thiện quan hệ với Mỹ là một chuyện, nhưng mối quan hệ đó sẽ tiến triển bao xa vẫn là điều chưa ai rõ. Trước hết, những khác biệt trong hệ thống chính trị giữa hai nước luôn khiến Việt Nam phải thận trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) vẫn coi chiến lược "diễn biến hòa bình" là mối đe dọa lớn đối với sự an nguy của chế độ. Một bộ phận trong giới lãnh đạo ĐCSVN tin rằng chiến lược đó đang được các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, sử dụng để từng bước cản trở và làm thay đổi Đảng. Những lo ngại đó càng sâu sắc hơn bởi những chỉ trích thường xuyên của họ về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Nhiều chính trị gia Mỹ thậm chí còn nêu cải thiện tình hình nhân quyền là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương.
Trong khi đó, Việt Nam cũng thận trọng để không để những diễn triển trong quan hệ Việt - Mỹ ảnh hưởng đến sự gắn kết với Trung Quốc. Chênh lệch sức mạnh, vị trí địa lý gần gũi, và sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng tăng giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như sự tương đồng ý thức hệ giữa hai Đảng Cộng sản đều có xu hướng khiến cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi có bất kỳ động thái nào có thể gây khó khăn cho mối quan hệ của Việt Nam với người láng giềng phương bắc.
Ngoài ra, một mối quan hệ xấu đi với Trung Quốc cũng không tránh khỏi gây bất ổn cho môi trường bên ngoài và phát triển kinh tế trong nước của Việt Nam. Do tăng trưởng kinh tế trở thành nguồn lực quan trọng nhất đảm bảo ổn định đất nước, Việt Nam không muốn đi ngược lại con đường đã đi. Điều này chỉ ra một điểm: mặc dù muốn thúc đẩy trao đổi kinh tế với Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn do dự tăng cường quan hệ chính trị và quân sự với đất nước từng là kẻ thù này.
Tuy nhiên, diễn biến thực tế trong mối quan hệ song phương trong vài năm qua cho thấy một hướng đi trái ngược; mối quan tâm củng cố quan hệ chính trị và quân sự với Mỹ của Việt Nam dường như càng sâu sắc hơn ngay cả khi những nỗ lực như vậy có thể khiến Trung Quốc không hài lòng và gây mất tự tin cho một bộ phận lãnh đạo Đảng.
Mặc dù các nhà ngoại giao Việt Nam nói mối quan hệ Việt - Mỹ tốt đẹp hơn được đặt trong khuôn khổ chính sách đối ngoại chung của Việt Nam là đa dạng hóa và đa phương hóa, hầu hết các nhà quan sát bên ngoài đều cho rằng động cơ chính đằng sau quyết định nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiết hơn đó chủ yếu liên quan đến những căng thẳng đang gia tăng trên Biển Đông, nơi Trung Quốc trở nên ngày càng ngông cuồng trong cách thực thi các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ của mình.
Với những tuyên bố chủ quyền chồng lấn trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các ranh giới biển, Việt Nam và Trung Quốc là hai bên đối lập chính trong tranh chấp Biển Đông. Việt Nam nhìn chung coi cuộc xâm lược chiếm quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc năm 1974, cuộc đụng độ hải quân với Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa năm 1988, và tuyên bố chủ quyền biển dựa trên đường 9 đoạn là bằng chứng cho thấy chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc, thứ mà trong quá khứ Việt Nam đã từng là nạn nhân.
Việc Trung Quốc ngày càng hung hăng trong thời gian gần đây - như thể hiện trong vụ việc của tàu Bình Minh 2 hồi tháng 5/2011 (khi tàu Trung Quốc tấn công tàu khảo sát địa chất của Việt Nam), và việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa vừa qua (một thành phố cấp tỉnh trực thuộc tỉnh Hải Nam để quản lý các đảo và bãi đá trên Biển Đông), và việc Trung Quốc mời thầu các nhà thầu quốc tế 9 lô thăm dò dầu khí ngay trong vùng đặc quyền của Việt Nam hồi tháng 6 - càng báo động Việt Nam về ý đồ của Trung Quốc ở Biển Đông.
.... Trước sự hiện đại hóa quân sự nhanh chóng ở quy mô lớn hơn nhiều của Trung Quốc, khoảng cách quân sự giữa hai nước vẫn tiếp tục nới rộng. Vì thế, ngay cả khi Việt Nam không ngừng nhấn mạnh chính sách quốc phòng tự lực, Việt Nam cũng vẫn cần làm sâu sắc mối quan hệ chiến lược với các cường quốc để bổ trợ cho những sự yếu thế đáng kể trong quan hệ với Trung Quốc.
Trong kịch bản đó, Mỹ trở thành đối tác được ưu tiên hơn của Việt Nam. Trước hết, Mỹ là cường quốc duy nhất có khả năng thách thức và kiềm chế hiệu quả tham vọng quân sự của Trung Quốc. Thứ hai, trong khi mối đe dọa "diễn biến hòa bình" được cho là âm mưu của các nước phương Tây, chưa mang đến những nguy cơ thực sự đối với sự cầm quyền của Đảng, mối đe dọa mang tên Trung Quốc đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đang hiện hữu hơn nhiều. Và thứ ba, trong khi thực tế mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ có thể khiến Trung Quốc khó chịu và mang lại những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế Việt Nam, cơ sở chính cho sự cầm quyền của Đảng - chủ nghĩa dân tộc và tinh thần chống ngoại xâm - cũng có nghĩa là nếu nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc và để cho sự toàn vẹn lãnh thổ gặp nguy thì nó sẽ thậm chí còn gây thiệt hại hơn nhiều cho uy tín và tính chính danh của Đảng.
Quyết định chuyển hướng trọng tâm chiến lược về châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ vừa qua... cũng sẽ làm diễn biến cuộc tranh chấp thay đổi theo hướng có lợi cho Việt Nam, ít nhất là trong ngắn hạn.
Xét về chiến lược, tranh chấp Biển Đông đang được cấu thành bởi ba lớp mâu thuẫn gắn bó chặt chẽ với nhau. Lớp trong nhất là cuộc đối đầu giữa Trung Quốc với từng bên tuyên bố chủ quyền Biển Đông trong ASEAN, bao gồm Việt Nam. Lớp ở giữa là cuộc cạnh tranh giữa ASEAN với Trung Quốc. Lớp ngoài cùng là cuộc cạnh tranh chiến lược mới nổi lên rõ rệt trong thời gian gần đây giữa Trung Quốc và Mỹ, trong đó Biển Đông là một trong những sân khấu diễn ra. Mặc dù Mỹ không phải là một bên trong tranh chấp, nhưng tham vọng khó chấp nhận và sự gia tăng quyết liệt của Trung Quốc trên Biển Đông tạo cho Mỹ cái cớ để can dự vào. Điều mà Mỹ muốn đảm bảo thông qua tham gia vào cuộc tranh chấp không phải chỉ là hòa bình hay tự do hàng hải trên Biển Đông, mà có vẻ như tranh chấp còn đang được siêu cường này sử dụng như một công cụ tiện lợi để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc ở tầm khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Động thái của Mỹ rõ ràng phù hợp với lợi ích của Việt Nam, tức là đưa tranh chấp với Trung Quốc ra lớp ngoài cùng để hóa giải sức mạnh vượt trội hơn của Trung Quốc. Sự tham gia của Mỹ dù là gián tiếp cũng có thể buộc Trung Quốc phải hành động thận trọng hơn và ít sẵn sàng sử dụng vũ lực hơn. Ngoài ra, toan tính chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc cũng sẽ làm giảm áp lực trong vấn đề nhân quyền đối với Việt Nam và tạo cơ hội thúc đẩy quan hệ song phương bước lên tầm cao mới.
Việt Nam và Mỹ vừa có những bước đi thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và quân sự. Hai nước từng là kẻ thù đang tổ chức các cuộc đối thoại an ninh, quốc phòng và nhân quyền hằng năm. Trong chuyến thăm lịch sử tới vịnh Cam Ranh, Bộ trưởng Benetta được cho là đã bày tỏ rằng Mỹ sẵn sàng giúp nâng cấp cảng và kêu gọi Việt Nam cho phép tàu hải quân Mỹ, bao gồm cả tàu chiến, có quyền tiếp cận lớn hơn tới cơ sở này. Và nếu xu hướng hợp tác đó còn tiếp tục, Mỹ có thể sẽ xem xét việc dỡ bỏ lệnh cấm vận mua bán vũ khí cho Việt Nam trong tương lai gần. Bên cạnh đó, hai nước cũng có nhiều động thái xây dựng lòng tin và hiểu biết lẫn nhau hơn nữa. Đơn cử, từ tháng 8/2012, một dự án do Mỹ tài trợ đã bắt đầu được triển khai để thanh trừ các chất hóa học độc hại còn sót lại từ chất độc màu da cam do Mỹ dải thảm tại một địa điểm gần sân bay Đà Nẵng. Dự án được đại sứ Mỹ David Shear miêu tả là động thái cụ thể của hai nước nhằm chôn lấp di sản của quá khứ.
Tuy nhiên, mặc dù mang lại những lợi ích chiến lược quan trọng, việc nối lại tình hữu nghị Việt-Mỹ trong bối cảnh cuộc đối đầu địa chính trị ngày càng sâu sắc giữa Mỹ với Trung Quốc cũng mang đến cho Việt Nam những rủi ro, mà nghiêm trọng nhất là có thể kéo Việt Nam vào một cuộc chơi quyền lực mới. Khi Trung Quốc đang từng bước hướng đến trở thành một siêu cường, một cuộc chiến tranh lạnh 2.0 có thể sẽ xuất hiện trong tương lai không xa. Lý thuyết thông thường, đặc biệt từ quan điểm chủ nghĩa hiện thực, sẽ dự đoán rằng nếu sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích toàn cầu của Mỹ, Mỹ sẽ phản ứng lại bằng cách kiềm chế Trung Quốc. Thực tế, sự chuyển hướng trọng tâm quân sự từ châu Âu về châu Á, theo như tuyên bố của Panetta tại Singapore hồi tháng 6 năm nay, có thể được coi là dấu hiệu ban đầu của chính sách kiềm chế. Tương tự, ở cấp độ khu vực, sự can dự nhiều hơn của Mỹ vào tranh chấp Biển Đông từ năm 2010 cho thấy Mỹ đang tìm cách ngăn cản Trung Quốc hiện thực hóa tham vọng biển của mình. Tóm lại, Mỹ đang sử dụng "mối đe dọa Trung Quốc" ở Biển Đông để tập hợp lực lượng và sự ủng hộ nhằm đối phó với Trung Quốc. Việc Mỹ nối lại quan tâm đối với Việt Nam, một quốc gia có vị trí địa lý quan trọng và là kẻ thù của Trung Quốc trong lịch sử, do đó được định hình trong bối cảnh này.
Nếu cạnh tranh chiến lược Trung - Mỹ tiếp tục diễn triển quyết liệt hơn, Việt Nam, với tư cách là một nước láng giềng của Trung Quốc và một bên trong tranh chấp Biển Đông, sẽ ở vào thế rất khó trong việc duy trì cân bằng giữa hai cường quốc và tránh những điều không mong muốn. Khi Mỹ tái cân bằng lực lượng về phía châu Á - Thái Bình Dương và làm sâu sắc thêm mối quan hệ với các nước trong khu vực, Trung Quốc sẽ không thể đứng yên. Theo đó, Trung Quốc sẽ cố gắng gây áp lực lên Việt Nam, nhắc nhở Việt Nam về tâm quan trọng của mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc. Đơn cử, trong mấy tháng trở lại đây, đã có những báo cáo về việc Trung Quốc ngừng hoặc trì hoãn nhập khẩu một số hàng hóa của Việt Nam vì những nguyên do còn chưa xác định rõ. Như đã nói ở trên, Trung Quốc vừa thành lập một đơn vị quân sự đồn trú tại cái gọi là thành phố Tam Sa mới thành lập để phụ trách theo dõi khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Động thái này rõ ràng nhằm vào Việt Nam và Philippine. Chưa hết, Trung Quốc cũng ngấm ngầm thực hiện chiến dịch ngoại giao gây ảnh hưởng lên Campuchia, láng giềng hữu nghị từ nhiều năm của Việt Nam. Việc Campuchia, được cho là dưới áp lực của Bắc Kinh, phản đối đưa vấn đề Biển Đông vào thông cáo chung kết thúc Hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Phnom Penh năm nay có thể được coi là động thái của Trung Quốc nhằm chia rẽ Việt Nam và Campuchia. Một mối quan hệ tốt với Campuchia cũng có ý nghĩa thiết yếu đối với an ninh của Việt Nam, nên dường như Trung Quốc đã biết phải làm đau Việt Nam như thế nào nếu không dành cho Bắc Kinh sự quan tâm thích đáng.
Tuy nhiên, khả năng Việt Nam bị lôi kéo vào một cuộc chơi quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc không nên bị phóng đại. Khả năng ấy vẫn phụ thuộc một số diễn biến khác. Quan trọng nhất là cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ trở nên khốc liệt đến mức nào. Không giống như thời kỳ Chiến tranh lạnh, sự phụ thuộc lẫn nhau mạnh mẽ và phức tạp về kinh tế đang có xu hướng hạn chế các cường quốc theo đuổi kiểu đối đầu thời Chiến tranh lạnh. Diễn biến tương lại trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Trung Quốc, và Việt Nam cũng có vai trò nhất định. Đơn cử, nếu có được sự nhượng bộ từ Trung Quốc, và bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông được thông qua, Việt Nam sẽ thấy ít sẵn sàng làm sâu sắc quan hệ với Mỹ hơn nếu nó đồng nghĩa với việc gây tổn hại cho quan hệ với Trung Quốc.
Việt Nam ngày nay không giống như đất nước của Triều đại nhà Nguyễn gần hai thế kỷ trước, không muốn bỏ qua cơ hội củng cố quan hệ với Washington. Tuy nhiên, khi mà cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ tăng nhiệt, nhân tố Trung Quốc cũng nổi lên là vấn đề thách thức nhất đối với các nhà chiến lược và hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam bị giằng xé giữa hai lựa chọn: duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ vững chắc hơn với Mỹ. Là một nước nhỏ và láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam không muốn phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Hậu quả của mỗi lựa chọn như thế ai cũng rõ, nên hiển nhiên, nếu phải quyết định thì đó sẽ là một lựa chọn đầy khó khăn cho Việt Nam.
Nguồn: Trâm Anh dịch từ American review magazine/ đăng bởi Lê Hồng Hiệp tại Tuânviệtnam ngày 31/12/2012Hai nước đã phải mất 166 năm sau mới có thể đi đến một hiệp định thương mại song phương. Nhiệm vụ dang dở của Roberts là một trong nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, mà ngay từ ngày đầu hai bên bắt đầu có những sự tiếp xúc, đã ngăn cản Việt Nam và Mỹ tạo dựng một mối quan hệ vững chắc hơn.
Thế kỷ 20, việc các tương tác kinh tế nghèo nàn cùng những điều kiện bất lợi trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã càng đẩy hai nước rời xa nhau. Việt Nam đã không may mắn khi ở giữa một cuộc đối đầu chiến lược cam go giữa hai khối Đông - Tây khi Chiến tranh lạnh diễn ra mạnh mẽ hơn vào những năm 1950. Khi các chiến sĩ Cộng sản Việt Nam đánh bại quân Pháp và tiến tới thống nhất cả nước vào năm 1954, họ đã vấp phải một chính sách kiềm chế chống cộng sản của phương Tây mà Mỹ là người đứng đầu. Trong khi đó, khối Cộng sản tiếp nhận Việt Nam như một "tiền đồn chống chủ nghĩa đế quốc" ở Đông Nam Á. Cuối cùng, Việt Nam và Mỹ đã rơi vào một cuộc chiến khốc liệt để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử hai nước.
Kết thúc chiến tranh, hai nước phải mất thêm hai thập niên nữa để hàn gắn và bình thường hóa quan hệ, điều mà chỉ đạt được vào năm 1995. Kể từ khi đó, mối quan hệ đã phát triển với tốc độ khiến nhiều nhà quan sát bất ngờ. Mỹ hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất và nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 10 của Việt Nam. Quan hệ chính trị cũng vươn tới tầm cao mà cải hai bên đều mong muốn nâng lên tầm quan hệ đối tác chiến lược. Trong khi đó, quan hệ quân sự dù còn khiêm tốn nhưng cũng đang được thắt chặt. Chuyến thăm lịch sử của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tới vịnh Cam Ranh hôm 3/6/2012 chứng minh cho mối quan hệ đang ngày một nồng ấm giữa hai nước.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào bối cảnh lịch sử, với bất cứ ai quan tâm đến mối quan hệ Việt - Mỹ cũng nên xem xét hai câu hỏi quan trọng. Trước hết, do vịnh Cam Ranh cách không xa vịnh Vũng Lắm, chuyến thăm của Panetta gợi lại sứ mệnh của Roberts năm 1833. Liệu Việt Nam sẽ chớp lấy cơ hội từ sự tái quan tâm của Mỹ đến mình để đảm bảo một mối quan hệ vững chắc hơn với siêu cường số một thế giới, hay sẽ lại để nó trôi qua, như những gì triều đình Huế đã làm vào năm 1833?
Thứ hai, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược đang gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc, một mối quan hệ Việt-Mỹ mạnh mẽ hơn sẽ khó tránh khỏi gây tổn hại đến quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. Vậy Việt Nam sẽ rơi vào cuộc Chiến tranh lạnh 2.0 và lại trở thành nạn nhân của một cuộc chơi quyền lực mới?
Tuy nhiên, việc Việt Nam tích cực cải thiện quan hệ với Mỹ là một chuyện, nhưng mối quan hệ đó sẽ tiến triển bao xa vẫn là điều chưa ai rõ. Trước hết, những khác biệt trong hệ thống chính trị giữa hai nước luôn khiến Việt Nam phải thận trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) vẫn coi chiến lược "diễn biến hòa bình" là mối đe dọa lớn đối với sự an nguy của chế độ. Một bộ phận trong giới lãnh đạo ĐCSVN tin rằng chiến lược đó đang được các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, sử dụng để từng bước cản trở và làm thay đổi Đảng. Những lo ngại đó càng sâu sắc hơn bởi những chỉ trích thường xuyên của họ về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Nhiều chính trị gia Mỹ thậm chí còn nêu cải thiện tình hình nhân quyền là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương.
Trong khi đó, Việt Nam cũng thận trọng để không để những diễn triển trong quan hệ Việt - Mỹ ảnh hưởng đến sự gắn kết với Trung Quốc. Chênh lệch sức mạnh, vị trí địa lý gần gũi, và sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng tăng giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như sự tương đồng ý thức hệ giữa hai Đảng Cộng sản đều có xu hướng khiến cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi có bất kỳ động thái nào có thể gây khó khăn cho mối quan hệ của Việt Nam với người láng giềng phương bắc.
Ngoài ra, một mối quan hệ xấu đi với Trung Quốc cũng không tránh khỏi gây bất ổn cho môi trường bên ngoài và phát triển kinh tế trong nước của Việt Nam. Do tăng trưởng kinh tế trở thành nguồn lực quan trọng nhất đảm bảo ổn định đất nước, Việt Nam không muốn đi ngược lại con đường đã đi. Điều này chỉ ra một điểm: mặc dù muốn thúc đẩy trao đổi kinh tế với Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn do dự tăng cường quan hệ chính trị và quân sự với đất nước từng là kẻ thù này.
Tuy nhiên, diễn biến thực tế trong mối quan hệ song phương trong vài năm qua cho thấy một hướng đi trái ngược; mối quan tâm củng cố quan hệ chính trị và quân sự với Mỹ của Việt Nam dường như càng sâu sắc hơn ngay cả khi những nỗ lực như vậy có thể khiến Trung Quốc không hài lòng và gây mất tự tin cho một bộ phận lãnh đạo Đảng.
Mặc dù các nhà ngoại giao Việt Nam nói mối quan hệ Việt - Mỹ tốt đẹp hơn được đặt trong khuôn khổ chính sách đối ngoại chung của Việt Nam là đa dạng hóa và đa phương hóa, hầu hết các nhà quan sát bên ngoài đều cho rằng động cơ chính đằng sau quyết định nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiết hơn đó chủ yếu liên quan đến những căng thẳng đang gia tăng trên Biển Đông, nơi Trung Quốc trở nên ngày càng ngông cuồng trong cách thực thi các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ của mình.
Với những tuyên bố chủ quyền chồng lấn trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các ranh giới biển, Việt Nam và Trung Quốc là hai bên đối lập chính trong tranh chấp Biển Đông. Việt Nam nhìn chung coi cuộc xâm lược chiếm quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc năm 1974, cuộc đụng độ hải quân với Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa năm 1988, và tuyên bố chủ quyền biển dựa trên đường 9 đoạn là bằng chứng cho thấy chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc, thứ mà trong quá khứ Việt Nam đã từng là nạn nhân.
Việc Trung Quốc ngày càng hung hăng trong thời gian gần đây - như thể hiện trong vụ việc của tàu Bình Minh 2 hồi tháng 5/2011 (khi tàu Trung Quốc tấn công tàu khảo sát địa chất của Việt Nam), và việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa vừa qua (một thành phố cấp tỉnh trực thuộc tỉnh Hải Nam để quản lý các đảo và bãi đá trên Biển Đông), và việc Trung Quốc mời thầu các nhà thầu quốc tế 9 lô thăm dò dầu khí ngay trong vùng đặc quyền của Việt Nam hồi tháng 6 - càng báo động Việt Nam về ý đồ của Trung Quốc ở Biển Đông.
.... Trước sự hiện đại hóa quân sự nhanh chóng ở quy mô lớn hơn nhiều của Trung Quốc, khoảng cách quân sự giữa hai nước vẫn tiếp tục nới rộng. Vì thế, ngay cả khi Việt Nam không ngừng nhấn mạnh chính sách quốc phòng tự lực, Việt Nam cũng vẫn cần làm sâu sắc mối quan hệ chiến lược với các cường quốc để bổ trợ cho những sự yếu thế đáng kể trong quan hệ với Trung Quốc.
Trong kịch bản đó, Mỹ trở thành đối tác được ưu tiên hơn của Việt Nam. Trước hết, Mỹ là cường quốc duy nhất có khả năng thách thức và kiềm chế hiệu quả tham vọng quân sự của Trung Quốc. Thứ hai, trong khi mối đe dọa "diễn biến hòa bình" được cho là âm mưu của các nước phương Tây, chưa mang đến những nguy cơ thực sự đối với sự cầm quyền của Đảng, mối đe dọa mang tên Trung Quốc đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đang hiện hữu hơn nhiều. Và thứ ba, trong khi thực tế mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ có thể khiến Trung Quốc khó chịu và mang lại những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế Việt Nam, cơ sở chính cho sự cầm quyền của Đảng - chủ nghĩa dân tộc và tinh thần chống ngoại xâm - cũng có nghĩa là nếu nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc và để cho sự toàn vẹn lãnh thổ gặp nguy thì nó sẽ thậm chí còn gây thiệt hại hơn nhiều cho uy tín và tính chính danh của Đảng.
Quyết định chuyển hướng trọng tâm chiến lược về châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ vừa qua... cũng sẽ làm diễn biến cuộc tranh chấp thay đổi theo hướng có lợi cho Việt Nam, ít nhất là trong ngắn hạn.
Xét về chiến lược, tranh chấp Biển Đông đang được cấu thành bởi ba lớp mâu thuẫn gắn bó chặt chẽ với nhau. Lớp trong nhất là cuộc đối đầu giữa Trung Quốc với từng bên tuyên bố chủ quyền Biển Đông trong ASEAN, bao gồm Việt Nam. Lớp ở giữa là cuộc cạnh tranh giữa ASEAN với Trung Quốc. Lớp ngoài cùng là cuộc cạnh tranh chiến lược mới nổi lên rõ rệt trong thời gian gần đây giữa Trung Quốc và Mỹ, trong đó Biển Đông là một trong những sân khấu diễn ra. Mặc dù Mỹ không phải là một bên trong tranh chấp, nhưng tham vọng khó chấp nhận và sự gia tăng quyết liệt của Trung Quốc trên Biển Đông tạo cho Mỹ cái cớ để can dự vào. Điều mà Mỹ muốn đảm bảo thông qua tham gia vào cuộc tranh chấp không phải chỉ là hòa bình hay tự do hàng hải trên Biển Đông, mà có vẻ như tranh chấp còn đang được siêu cường này sử dụng như một công cụ tiện lợi để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc ở tầm khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Động thái của Mỹ rõ ràng phù hợp với lợi ích của Việt Nam, tức là đưa tranh chấp với Trung Quốc ra lớp ngoài cùng để hóa giải sức mạnh vượt trội hơn của Trung Quốc. Sự tham gia của Mỹ dù là gián tiếp cũng có thể buộc Trung Quốc phải hành động thận trọng hơn và ít sẵn sàng sử dụng vũ lực hơn. Ngoài ra, toan tính chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc cũng sẽ làm giảm áp lực trong vấn đề nhân quyền đối với Việt Nam và tạo cơ hội thúc đẩy quan hệ song phương bước lên tầm cao mới.
Việt Nam và Mỹ vừa có những bước đi thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và quân sự. Hai nước từng là kẻ thù đang tổ chức các cuộc đối thoại an ninh, quốc phòng và nhân quyền hằng năm. Trong chuyến thăm lịch sử tới vịnh Cam Ranh, Bộ trưởng Benetta được cho là đã bày tỏ rằng Mỹ sẵn sàng giúp nâng cấp cảng và kêu gọi Việt Nam cho phép tàu hải quân Mỹ, bao gồm cả tàu chiến, có quyền tiếp cận lớn hơn tới cơ sở này. Và nếu xu hướng hợp tác đó còn tiếp tục, Mỹ có thể sẽ xem xét việc dỡ bỏ lệnh cấm vận mua bán vũ khí cho Việt Nam trong tương lai gần. Bên cạnh đó, hai nước cũng có nhiều động thái xây dựng lòng tin và hiểu biết lẫn nhau hơn nữa. Đơn cử, từ tháng 8/2012, một dự án do Mỹ tài trợ đã bắt đầu được triển khai để thanh trừ các chất hóa học độc hại còn sót lại từ chất độc màu da cam do Mỹ dải thảm tại một địa điểm gần sân bay Đà Nẵng. Dự án được đại sứ Mỹ David Shear miêu tả là động thái cụ thể của hai nước nhằm chôn lấp di sản của quá khứ.
Tuy nhiên, mặc dù mang lại những lợi ích chiến lược quan trọng, việc nối lại tình hữu nghị Việt-Mỹ trong bối cảnh cuộc đối đầu địa chính trị ngày càng sâu sắc giữa Mỹ với Trung Quốc cũng mang đến cho Việt Nam những rủi ro, mà nghiêm trọng nhất là có thể kéo Việt Nam vào một cuộc chơi quyền lực mới. Khi Trung Quốc đang từng bước hướng đến trở thành một siêu cường, một cuộc chiến tranh lạnh 2.0 có thể sẽ xuất hiện trong tương lai không xa. Lý thuyết thông thường, đặc biệt từ quan điểm chủ nghĩa hiện thực, sẽ dự đoán rằng nếu sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích toàn cầu của Mỹ, Mỹ sẽ phản ứng lại bằng cách kiềm chế Trung Quốc. Thực tế, sự chuyển hướng trọng tâm quân sự từ châu Âu về châu Á, theo như tuyên bố của Panetta tại Singapore hồi tháng 6 năm nay, có thể được coi là dấu hiệu ban đầu của chính sách kiềm chế. Tương tự, ở cấp độ khu vực, sự can dự nhiều hơn của Mỹ vào tranh chấp Biển Đông từ năm 2010 cho thấy Mỹ đang tìm cách ngăn cản Trung Quốc hiện thực hóa tham vọng biển của mình. Tóm lại, Mỹ đang sử dụng "mối đe dọa Trung Quốc" ở Biển Đông để tập hợp lực lượng và sự ủng hộ nhằm đối phó với Trung Quốc. Việc Mỹ nối lại quan tâm đối với Việt Nam, một quốc gia có vị trí địa lý quan trọng và là kẻ thù của Trung Quốc trong lịch sử, do đó được định hình trong bối cảnh này.
Nếu cạnh tranh chiến lược Trung - Mỹ tiếp tục diễn triển quyết liệt hơn, Việt Nam, với tư cách là một nước láng giềng của Trung Quốc và một bên trong tranh chấp Biển Đông, sẽ ở vào thế rất khó trong việc duy trì cân bằng giữa hai cường quốc và tránh những điều không mong muốn. Khi Mỹ tái cân bằng lực lượng về phía châu Á - Thái Bình Dương và làm sâu sắc thêm mối quan hệ với các nước trong khu vực, Trung Quốc sẽ không thể đứng yên. Theo đó, Trung Quốc sẽ cố gắng gây áp lực lên Việt Nam, nhắc nhở Việt Nam về tâm quan trọng của mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc. Đơn cử, trong mấy tháng trở lại đây, đã có những báo cáo về việc Trung Quốc ngừng hoặc trì hoãn nhập khẩu một số hàng hóa của Việt Nam vì những nguyên do còn chưa xác định rõ. Như đã nói ở trên, Trung Quốc vừa thành lập một đơn vị quân sự đồn trú tại cái gọi là thành phố Tam Sa mới thành lập để phụ trách theo dõi khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Động thái này rõ ràng nhằm vào Việt Nam và Philippine. Chưa hết, Trung Quốc cũng ngấm ngầm thực hiện chiến dịch ngoại giao gây ảnh hưởng lên Campuchia, láng giềng hữu nghị từ nhiều năm của Việt Nam. Việc Campuchia, được cho là dưới áp lực của Bắc Kinh, phản đối đưa vấn đề Biển Đông vào thông cáo chung kết thúc Hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Phnom Penh năm nay có thể được coi là động thái của Trung Quốc nhằm chia rẽ Việt Nam và Campuchia. Một mối quan hệ tốt với Campuchia cũng có ý nghĩa thiết yếu đối với an ninh của Việt Nam, nên dường như Trung Quốc đã biết phải làm đau Việt Nam như thế nào nếu không dành cho Bắc Kinh sự quan tâm thích đáng.
Tuy nhiên, khả năng Việt Nam bị lôi kéo vào một cuộc chơi quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc không nên bị phóng đại. Khả năng ấy vẫn phụ thuộc một số diễn biến khác. Quan trọng nhất là cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ trở nên khốc liệt đến mức nào. Không giống như thời kỳ Chiến tranh lạnh, sự phụ thuộc lẫn nhau mạnh mẽ và phức tạp về kinh tế đang có xu hướng hạn chế các cường quốc theo đuổi kiểu đối đầu thời Chiến tranh lạnh. Diễn biến tương lại trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Trung Quốc, và Việt Nam cũng có vai trò nhất định. Đơn cử, nếu có được sự nhượng bộ từ Trung Quốc, và bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông được thông qua, Việt Nam sẽ thấy ít sẵn sàng làm sâu sắc quan hệ với Mỹ hơn nếu nó đồng nghĩa với việc gây tổn hại cho quan hệ với Trung Quốc.
Việt Nam ngày nay không giống như đất nước của Triều đại nhà Nguyễn gần hai thế kỷ trước, không muốn bỏ qua cơ hội củng cố quan hệ với Washington. Tuy nhiên, khi mà cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ tăng nhiệt, nhân tố Trung Quốc cũng nổi lên là vấn đề thách thức nhất đối với các nhà chiến lược và hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam bị giằng xé giữa hai lựa chọn: duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ vững chắc hơn với Mỹ. Là một nước nhỏ và láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam không muốn phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Hậu quả của mỗi lựa chọn như thế ai cũng rõ, nên hiển nhiên, nếu phải quyết định thì đó sẽ là một lựa chọn đầy khó khăn cho Việt Nam.
--------------
Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012
Vài suy nghĩ sau tuyên bố của Đô đôc Samuel Locklear
Đài VOA ngày 7/12/2012 dẫn nguồn tin của Bộ Quốc Phòng Mĩ (US Department of Defense PR/ Freebeacon.com) đưa tin về tuyên bố báo chí của Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Mĩ ngày 6/12 với tiêu đề "Mỹ từ chối hỗ trợ đồng minh Châu Á trong tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc".Tiếp ngay bên dưới là lời dẫn đề nêu rõ:
"Hoa Kỳ không hỗ trợ các đồng minh và nước bạn quan trọng trong khu vực Châu Á có dính líu tới các tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc giữa bối cảnh các hành động gây hấn của Bắc Kinh ở Biển Đông đang leo thang" .
![]() |
Đô đốc Samuel Locklear |
(Xem tin đầy đủ tại đây http://www.voatiengviet.com/content/my-tu-cho-ho-tro-dong-minh-chau-a-trong-tranh-chap-bien-dong-voi-trung-quoc/1560465.html
Bản tin thật ngắn gọn, nhưng có lẽ đã cho ta một lời kết về câu chuyện rất dài mà cả thế giới đã chăm chú theo dõi bấy lâu nay -.đó là chờ xem Mĩ sẽ hành động như thế nào trước âm mưu và hành động xâm lược trắng trợn của nước Trung Quốc "đang trỗi dậy" đối với các quốc gia láng giềng nhỏ yếu hơn xung quanh. Trước mối hiểm họa của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, các quốc gia khu vực dù không muốn vẫn phải chấp nhận sự trở lại của Mĩ và mong đợi cường quốc số I này đóng vai trò như một hiệp sĩ đứng ra bảo vệ cho họ. Về phần mình nước Mĩ đường như chợt nhận ra một cơ hôi để kèm chế đối thủ, nhưng đồng thời cũng nhận ra những hạn chế của bản thân, nhất là trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và những cam kết phiền toái khác trên toàn cầu. Cũng như xu hướng chung của khu vực, người Việt Nam trong và ngoài nước, dân thường và chính khách, ít nhiều đã tin rằng Mĩ sẽ không khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Thậm chí không ít người tin rằng Mĩ sẽ nhân cơ hội này giáng cho Bắc Kinh một đòn chí tử(!?) Tuy nhiên diễn biến tình hình ngày càng cho thấy không như vậy. Trước việc Mĩ đã không can thiệp gì trong vụ đụng độ Scarbourough giữa Philipin-Trung Quốc, rồi vụ Senkaku giữa Nhật-Trung, dư luận đã bắt đầu nghi ngờ về vai trò hiệp sĩ của nước Mĩ. Mới đây giới quan sát đã bàn tán về hiện tượng "trầm lặng" của Tổng thống Obama tại Hội nghị cấp Cao Đông Á (EAS) tại Pnom Pênh tháng 11 trong khi phía Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang ngược lấn lướt tại Biển Đông. Và bây giờ là lời tuyên bố của vị Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương.
Bản tin thật ngắn gọn, nhưng có lẽ đã cho ta một lời kết về câu chuyện rất dài mà cả thế giới đã chăm chú theo dõi bấy lâu nay -.đó là chờ xem Mĩ sẽ hành động như thế nào trước âm mưu và hành động xâm lược trắng trợn của nước Trung Quốc "đang trỗi dậy" đối với các quốc gia láng giềng nhỏ yếu hơn xung quanh. Trước mối hiểm họa của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, các quốc gia khu vực dù không muốn vẫn phải chấp nhận sự trở lại của Mĩ và mong đợi cường quốc số I này đóng vai trò như một hiệp sĩ đứng ra bảo vệ cho họ. Về phần mình nước Mĩ đường như chợt nhận ra một cơ hôi để kèm chế đối thủ, nhưng đồng thời cũng nhận ra những hạn chế của bản thân, nhất là trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và những cam kết phiền toái khác trên toàn cầu. Cũng như xu hướng chung của khu vực, người Việt Nam trong và ngoài nước, dân thường và chính khách, ít nhiều đã tin rằng Mĩ sẽ không khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Thậm chí không ít người tin rằng Mĩ sẽ nhân cơ hội này giáng cho Bắc Kinh một đòn chí tử(!?) Tuy nhiên diễn biến tình hình ngày càng cho thấy không như vậy. Trước việc Mĩ đã không can thiệp gì trong vụ đụng độ Scarbourough giữa Philipin-Trung Quốc, rồi vụ Senkaku giữa Nhật-Trung, dư luận đã bắt đầu nghi ngờ về vai trò hiệp sĩ của nước Mĩ. Mới đây giới quan sát đã bàn tán về hiện tượng "trầm lặng" của Tổng thống Obama tại Hội nghị cấp Cao Đông Á (EAS) tại Pnom Pênh tháng 11 trong khi phía Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang ngược lấn lướt tại Biển Đông. Và bây giờ là lời tuyên bố của vị Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương.
Phải chăng cái gì đến đã đến. Lời tuyên bố mới này có thể được hiểu như một tuyên bố chính thức về lập trường của nước Mĩ, đó là đứng ngoài cuộc tranh chấp chấp chủ quyền biển đảo giữa các quốc gia nhỏ yếu hơn với cường quốc Trung Quốc. Nói cách khác, Mĩ sẽ khoanh tay đứng nhìn các thế lực bành trướng Trung Quốc tác oai tác quái tại Biển Đông . Có lẽ chỉ còn một điều chưa hoàn toàn rõ ràng là Mĩ sẽ làm gì nếu một ngày kia tàu bè của bản thân nước Mĩ sẽ không được tự do qua lại vùng Biển Đông như họ đã từng được làm như vậy suốt thế kỷ qua. Rất có thể câu chuyện riêng tư này cũng sẽ được Bắc Kinh yêu cầu "thỏa thuận song phương Trung -Mĩ !"
Những ai có chút am hiểu về nước Mĩ, đặc biệt qua những chặng đường biến thiên trong lịch sử quan Mĩ-Trung, nhất là thời kỳ sắp kết thúc chiến tranh Việt Nam, sẽ không mấy ngạc nhiên trước kết cục nói trên. Còn nhớ người Mĩ đã từng bỏ rơi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và để mất quần đảo Hoàng Sa như thế nào trong thời gian trước biến cố tháng 4/1975. Thực ra sự câu kết Mĩ -Trung đã bắt đầu từ cuộc gặp bí mật Thượng Hải 1972, chứ không phải đợi đến sau khi kết thức chiến tranh lạnh. Nếu hiểu được sự thật này sẽ thấy rằng lời tuyên bố của Tư lệnh Thái Bình Dương mới đây chỉ là một sự tiếp nối có lo-gíc mà thôi. Đó là một vấn đề có tính chiến lược của nước Mĩ trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mà trong đó nước Mĩ không sớm thì muộn buộc phải chia sẻ quyền lực với Trung Quốc.
Là người Việt Nam, chúng ta không có gì để ngạc nhiên trước kết cục nói trên. Các cường quốc dù là Mĩ hay Trung Quốc chưa bao giờ thực sự là đồng minh lâu dài của các quốc gia độc lập dân tộc, nếu có chăng chỉ là tạm thời và có điều kiện. Sự nghiệp bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào nội lực của mỗi nước. Lịch sử thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên Việt Nam cũng không thể trông chờ hoặc phụ thuộc mãi mãi vào một cường quốc. Vẫn biết vai trò Mĩ rất quan trọng, nhưng bạn bè thiết thực của Việt Nam là những nước có cùng cảnh ngộ trong khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Philipine, Hàn Quốc, ASEAN, Úc, Nga... Nhớ lại thời đại phong kiến ít khả năng liên kết với quốc tế, người Việt Nam đã từng chiến thắng xâm lược Phương Bắc, huống chi trong thời đại toàn cầu hóa bạn bè có ở khắp nơi . Đối với Việt Nam , bí quyết thành công của mọi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm chính là lòng tự tôn, tự cường dân tộc; sức mạnh để chiến thắng kẻ thù chính là khối đoàn kết toàn dân. Nếu không ghi nhớ bài học đơn giản này, sẽ không thể tin vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. Người lãnh đạo nào không thấm nhuần bài học này thì nên từ bỏ vai trò lãnh đạo nếu không muốn bị nhân dân đào thải.
Trong việc chọn bạn/thù, Việt Nam nên học hỏi thêm bài học kinh nghiệm của Nhật bản, Hàn Quốc, chừng mực nào đó của Đài Loan và Hồng Kông. Bí quyết thành công của các nước và vùng lãnh thổ nói trên là phải giữ khoảng cách trong quan hệ với Đại lục. Bài học này cũng giải thích tại sao cùng một dân tộc, nhưng Bắc Triều Tiên mãi lạc hậu trong khi Nam Triều Tiên thì phát triển như vậy . Từ bài học này cho thấy, Việt Nam tuy không bao giờ nên chủ trương đối đầu, nhưng nhất quyết phải tách khỏi ảnh hưởng về "ý thức hệ" với Trung Quốc. Chỉ khi nào thoát khỏi thế kèm cặp của Trung Quốc, Việt Nam mới có thể tận hưởng nguồn tri thức và khoa học-kỹ thuật tiên tiến của nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới . Và phát triển là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Nói cách khác, giữ khoảng cách thích hợp với Trung Quốc là thượng sách đối với Việt Nam. Thực tế cũng đã cho thấy trong thời kỳ 100 năm thuộc Pháp dù sao lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam đã không mất vào tay Trung Quốc. Từ sau tháng Tám 1945, quan hệ Việt-Trung càng gần gũi bao nhiêu nguy cơ mất lãnh thổ càng lớn bấy nhiêu. Hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đã nổ ra trong sự bất ngờ của Việt Nam và thế giới, qua đó biên giới phía Bắc đã bị gặm nhấm, mất quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa, hiện đang có nguy cơ mất cả vùng đặc quyền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã từng có cơ hội phát triển theo hướng hiện đại hóa ngay trong thời kỳ từ 1980- đầu những năm 2000 khi quan hệ Việt -Trung căng thẳng và lạnh nhạt. Nhưng từ khi bình thường hóa quan hệ, máy móc cũ lỗi thời cùng hàng hóa, thiết bị kém chất lượng của Trung Quốc tràn vào bóp chết các cơ sở sản xuất hiện đại mới manh nha của Việt Nam. Đó là chưa kể những âm mưu phá hoại ngầm của ông bạn "4 tốt" từ việc chào thầu thấp để tranh giành các dự án khai thác boxit Tây Nguyên, các nhà máy nhiệt điện, chiếm dụng các vùng đất, rừng, mặt biển trọng yếu v.v...gây nhiều hậu quả và khó khăn cho phía Việt Nam.
Tóm lại, dù trong bất cứ tình huống nào, có hay không sự can thiệp của Mĩ trong cuộc tranh chấp Biển Đông, thì Việt Nam vẫn kiên quyết đấu tranh bảo về chủ quyền biển đảo của mình vì đó không chỉ là nguồn sống mà là cửa ngõ, là tương lai sinh tồn của dân tộc. Tuyên bố mới đây của Mĩ "không hỗ trợ đồng minh và nước bạn..." chắc chắn sẽ khuyến khích các hành động lấn chiếm ngang ngược hơn của tàu thuyền Trung Quốc trên khắp vùng Biển Đông khiến Việt Nam, Phlipin thêm điêu đứng . Nhưng tình hình mới sẽ thúc dục Việt Nam và các bên bị tác động xích lại gần nhau hơn để đối phó với Trung Quốc. Việt Nam không có cách nào khác là phải kiên định hơn nữa trong quan hệ với Trung Quốc. Đó là một thời kỳ mới với cả thách thức và cơ hội đòi hỏi Việt Nam, trước hết là giới lãnh đạo, phải thích ứng để tồn tại và phát triển. Đây là cơ hội để Việt Nam điều chỉnh lại quan hệ đồng minh, bạn/thù phù hợp với tình hình mới, đối xử ngang nhau với hai cường quốc Mĩ, Trung. Đây là thời điểm thuận tiện để Việt Nam chuyển sang một chính sách ngoại giao cởi mở, minh bạch, trong đó mọi ân, oán với các cựu thù, kể cả Mĩ và Trung Quốc, cần được giải bày nhằm đi tới cơ sở đồng thuận mới công bằng hợp lý hơn.
.
Trong việc chọn bạn/thù, Việt Nam nên học hỏi thêm bài học kinh nghiệm của Nhật bản, Hàn Quốc, chừng mực nào đó của Đài Loan và Hồng Kông. Bí quyết thành công của các nước và vùng lãnh thổ nói trên là phải giữ khoảng cách trong quan hệ với Đại lục. Bài học này cũng giải thích tại sao cùng một dân tộc, nhưng Bắc Triều Tiên mãi lạc hậu trong khi Nam Triều Tiên thì phát triển như vậy . Từ bài học này cho thấy, Việt Nam tuy không bao giờ nên chủ trương đối đầu, nhưng nhất quyết phải tách khỏi ảnh hưởng về "ý thức hệ" với Trung Quốc. Chỉ khi nào thoát khỏi thế kèm cặp của Trung Quốc, Việt Nam mới có thể tận hưởng nguồn tri thức và khoa học-kỹ thuật tiên tiến của nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới . Và phát triển là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Nói cách khác, giữ khoảng cách thích hợp với Trung Quốc là thượng sách đối với Việt Nam. Thực tế cũng đã cho thấy trong thời kỳ 100 năm thuộc Pháp dù sao lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam đã không mất vào tay Trung Quốc. Từ sau tháng Tám 1945, quan hệ Việt-Trung càng gần gũi bao nhiêu nguy cơ mất lãnh thổ càng lớn bấy nhiêu. Hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đã nổ ra trong sự bất ngờ của Việt Nam và thế giới, qua đó biên giới phía Bắc đã bị gặm nhấm, mất quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa, hiện đang có nguy cơ mất cả vùng đặc quyền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã từng có cơ hội phát triển theo hướng hiện đại hóa ngay trong thời kỳ từ 1980- đầu những năm 2000 khi quan hệ Việt -Trung căng thẳng và lạnh nhạt. Nhưng từ khi bình thường hóa quan hệ, máy móc cũ lỗi thời cùng hàng hóa, thiết bị kém chất lượng của Trung Quốc tràn vào bóp chết các cơ sở sản xuất hiện đại mới manh nha của Việt Nam. Đó là chưa kể những âm mưu phá hoại ngầm của ông bạn "4 tốt" từ việc chào thầu thấp để tranh giành các dự án khai thác boxit Tây Nguyên, các nhà máy nhiệt điện, chiếm dụng các vùng đất, rừng, mặt biển trọng yếu v.v...gây nhiều hậu quả và khó khăn cho phía Việt Nam.
Tóm lại, dù trong bất cứ tình huống nào, có hay không sự can thiệp của Mĩ trong cuộc tranh chấp Biển Đông, thì Việt Nam vẫn kiên quyết đấu tranh bảo về chủ quyền biển đảo của mình vì đó không chỉ là nguồn sống mà là cửa ngõ, là tương lai sinh tồn của dân tộc. Tuyên bố mới đây của Mĩ "không hỗ trợ đồng minh và nước bạn..." chắc chắn sẽ khuyến khích các hành động lấn chiếm ngang ngược hơn của tàu thuyền Trung Quốc trên khắp vùng Biển Đông khiến Việt Nam, Phlipin thêm điêu đứng . Nhưng tình hình mới sẽ thúc dục Việt Nam và các bên bị tác động xích lại gần nhau hơn để đối phó với Trung Quốc. Việt Nam không có cách nào khác là phải kiên định hơn nữa trong quan hệ với Trung Quốc. Đó là một thời kỳ mới với cả thách thức và cơ hội đòi hỏi Việt Nam, trước hết là giới lãnh đạo, phải thích ứng để tồn tại và phát triển. Đây là cơ hội để Việt Nam điều chỉnh lại quan hệ đồng minh, bạn/thù phù hợp với tình hình mới, đối xử ngang nhau với hai cường quốc Mĩ, Trung. Đây là thời điểm thuận tiện để Việt Nam chuyển sang một chính sách ngoại giao cởi mở, minh bạch, trong đó mọi ân, oán với các cựu thù, kể cả Mĩ và Trung Quốc, cần được giải bày nhằm đi tới cơ sở đồng thuận mới công bằng hợp lý hơn.
.
Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012
Biển Đông lại nóng sau Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 21
Từ 15 đến 20/11/2012 tại Pnom Pênh đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 21 và các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị, trong đó có Hội nghị Đông Á (EAS) hội tụ đầy đủ các cường quốc thế giới. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần này diễn ra ngay sau khi cường quốc số 1- Mỹ vừa tái cử Tổng thống Obama và cường quốc số 2-Trung Quốc vừa kết thúc đại hội đảng với việc chọn Tổng Bí thư mới Tập Cận Bình, trong khi cường quốc số 3-Nhật Bản đang thâm hụt thương mại nghiêm trong do hậu quả của cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.
Mục đích chính của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN bàn về tiến trình nhất thể hóa kinh tế ASEAN vào năm 2015, nhưng nội dung quan tâm thực sự vẫn là vấn đề Biển Đông. Và vấn đề Biển Đông lại một lần nữa nóng lêntrong khi nội bộ ASEAN tiếp tục phân hóa chia rẽ trước thủ đoạn "chia để trị" ráo riết của Bắc Kinh. Trên thực tế ASEAN đang chia thành 3 nhóm nước:
a) Nhóm Camphuchia, Lào, Myanma và Thái Lan là những nước không không có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, có xu hướng chạy theo lợi ích kinh tế trước sự mồi chài hậu hĩnh từ Bắc Kinh. Riêng Pnom Penh đã dấn sâu vào con đương câu kết với Bắc Kinh, biểu hiện ở việc một lần nữa lợi dụng tư cách nước chủ nhà tuyên bố "ASEAN đồng thuận không nêu vấn đề Biển Đông"... Philipine buộc phải lên tiếng phản bác gay gắt, Việt Nam lặng lẽ phản đối.
b) Nhóm gồm Singapore, Indonesia tuy giáp Biển Đông nhưng không có tranh chấp với Trung Quốc. Hai nước này cũng cho thấy ý đồ trục lợi thông qua việc đảm nhận vai trò trung gian hòa giải, nhưng bản thân tránh nêu công khai lại còn tìm cách ngăn cản các bên khác nêu vấn đề Biển Đông không muốn chọc giận Trung Quốc.
c) Nhóm các nước có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc gồm Việt Nam, Philipine, Malaysia và Brunei. Các nước này đều nằm trong phạm vi "đường lưỡi bò" nên ít nhiều dẽ tìm thấy tiếng nói liên quan đến giải pháp Biển Đông, nhưng mức độ có khác nhau . Trong một biểu hiện đáng khích lệ, theo sáng kiến của Philipine bốn nước này dự định sẽ họp riêng rẽ về vấn đề Biển Đông trong tháng 12 tới. Nếu dự định này thành công sẽ tạo ra một kênh đàm phán thực chất và góp phần phá bỏ thế bế tắc lâu nay.
Bên cạnh những thành công là những hạn chế của Hội nghị, đặc biệt xung quanh vấn đề Biển Đông, trong đó lập trường của Bắc Kinh không hề thay đổi, thái độ không hề nao núng. Sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN đã bộc lộ, chỉ còn lại Philipine và Việt Nam trên tuyến đầu trong cuộc đối đầu với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Đó là một kết cục trớ trêu nhưng hoàn toàn dẽ hiểu trong lịch sử hình thành các quốc gia Đông Nam Á với tính cách phổ biến đã được đúc kết trong ca dao tục ngữ khu vưc là "Đèn nhà ai ấy rạng" và "Nước đến chân mới nhảy".... Đó chính là gót chân Asin của ASEAN. Và điểm yếu này đang bộc lộ trước ma lực của đồng Nhân dân tệ khiến một nhà ngoại giao châu Á tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 21 đã nhận xét: “Một số nước dễ bị lung lay bởi tiền bạc. Nếu nhìn thấy tiền, họ có thể dễ dàng vứt bỏ những nguyên tắc ”.
Về phần mình, Trung Quốc sau khi đã ngụy tạo cái gọi là "Thành phố Tam Sa" đặt trụ sở tại quần đảo Hoàng Sa nhưng cai quản cả vùng biển Đông bao gồm cả bãi san hô Scarborough của Philipine và xuống quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đây là xảo thuật biến không thành có nhằm tạo thế đứng chân trên thực địa như một sự đã rồi chuẩn bị cho những cuộc đàm phán trong tương lai khi không thể trì hoãn thêm nữa. Đồng thời, sau quá trình kiên trì với các thủ đoạn "chia để trị", Bắc Kinh giờ đây đã thò được cái chân sói vào chiếc chăn ASEAN qua lỗ thủng Campuchia - nước vừa được đính thân Thủ tướng Ôn Gia Bảo tặng danh hiệu "hình mẫu quan hệ láng giềng" ngay trong dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần này. Liệu những lỗ thủng tiếp theo là nước nào chắc không khó để suy đoán. Điều đã rõ là, đến nay Bắc Kinh đã khống chế được Cămpuchia, chi phối Lào và ảnh hưởng với mức độ khác nhau đối với các nước khác, tổng cộng ít nhất cũng quá nửa tổng số thành viên của khối ASEAN. Chiêu bài của Bắc Kinh vẫn chỉ là "cây gậy và củ cà rốt" vốn đã quá quen thuộc của chủ nghĩa thực dân.

Một số diễn biến khác rất đáng lưu ý. Đó là, bất chấp mọi lý lẽ đầy sức thuyết phục bác bỏ đòi hỏi chủ quyền vô lý của phía Trung Quốc được các học giả quốc tế đưa ra tại cuộc Hội thảo Biển Đông lần thứ 4 diễn ra đồng thời với Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 21, THX ngày 21/11 đã phát đi một bài bình luận sặc mùi hiếu chiến sô vanh nước lớn với những lời lẽ áp đặt chủ quan nhằm chia rẽ, cô lập Việt Nam và Philipine.
Sau khi đổ lỗi cho Việt Nam và Philipine, bài bình luận này kết luận: “Thật là thiếu khôn ngoan khi nêu lên vấn đề tranh chấp trên Biển Nam Trung Hoa tại Hội nghị Thượng đỉnh Ðông Á. Tuy nhiên Philippines và Việt Nam đã gây chi phối hội nghị bằng việc nhấn mạnh đến những tranh chấp này tại hội nghị thượng đỉnh một cách dai dẳng. Trong khi nước chủ tịch luân phiên ASEAN là Campuchia trong một cuộc họp hôm thứ Hai nói rằng khối 10 nước thành viên ASEAN đồng ý không ‘quốc tế hóa’ các tranh chấp này, thì Tổng thống Philippines Aquino lại bất chấp những nguyên tắc ngoại giao cơ bản và thẳng thừng trách cứ Thủ tướng Hun Sen của nước chủ nhà hội nghị.”
Vẫn với thủ thuật "gắp lửa bỏ tay người" bài bình luận viết tiếp: “Việc Philippines và Việt Nam bất chấp những nguyên tắc ngoại giao hình như bị tác động bởi lòng tham trữ lượng dầu khí, và nguồn hải sản dồi dào trên Biển Nam Trung Hoa”. Cả Việt Nam và Philippines đều “chơi con bài kêu gào để tìm sự giúp đỡ từ các nước bên ngoài khu vực, mà cụ thể là Hoa Kỳ trong cái gọi là "Chiến lược Trục xoáy Á Châu”...."Việt Nam và Philippines muốn mượn tay Hoa Kỳ để gây sức ép với Trung Quốc tại hội nghị thượng đỉnh có sự tham dự của Tổng thống Barack Obama.”
![]() |
Hình lưởi bò được in chìm ở từng trang của hộ chiếu TQ (ảnh CTV) |
http://tuoitre.vn/The-gioi/521899/Them-mot-hanh-dong-tham-doc-cua-Trung-Quoc.html
Những động thái trên đây cho thấy thái độ cố chấp đầy ngạo mạn của các thế lực bành trướng bá quyền Đại Hán được sự chỉ đạo từ trung ương. Điều này cho thấy nhà cầm quyền Trung Quốc không hề có ý định đàm phán nghiêm túc dù chỉ là song phương trước khi họ đạt được âm mưu "biến không thành có" và tạo dựng những chứng cứ giải tạo cần thiết. Thế giới không nên ảo tưởng vào thiện chí đàm phán hòa bình từ phía Bắc Kinh, trái lại cần đề phòng nguy cơ chiến tranh nóng do chính họ gây ra để thôn tính nốt những vùng biển đảo đang thuộc quyền kiểm soát của các nước khác. Để đạt mục tiêu độc chiếm Biển Đông Trung Quốc sẽ không nề hà mọi thủ đoạn bất chấp công lý quốc tế.
Thực tế gần đây cho thấy Mỹ tuy đã khẳng định chủ trương "xoay trục" trở lại khu vực Đông Nam Á và Châu Ấ -TBD, nhưng lại bị rơi vào thế "lực bất tòng tâm" trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và tình hình bất ổn rộ lên tại Trung Đông. Tình thế dường buộc Mỹ phải thay đổi nếp tư duy đơn cực sang lưỡng cực và chấp nhận chia sẻ quyền lực với cường quốc số 2. Có thể đó là lý do tại sao dự luận đã nhận thấy "sự trầm lặng của Obama" trong chuyến công du Đông Nam Á vừa qua dù đó là hoạt động đầu tiên ngay sau khi tái đắc cử của mình.
Riêng trường hợp Nhật Bản tuy nằm ngoài Biển Đông nhưng là "người trong cuộc" nếu xét về bản chất của vấn đề Biển Đông. Với vị trí kế cận Biển Đông và là một cường quốc kinh tế hàng đầu, Nhật Bản đã và đang sử dụng tuyến hàng hải xuyên Biển Đông như một huyết mạnh chủ yếu. Hơn nữa cuộc tranh chấp tại Biển Đông có liên quan mật thiết với cuộc tranh chấp tại Biển Hoa Đông. Do đó, Nhật Bản là đồng minh tự nhiên của các quốc gia ven Biển Đông và ASEAN nói chung.
Có lẽ chỉ trường hợp nước Nga đang cho thấy một sự chuyển động mới. Sau thời kỳ dài sao nhãng hoặc đứng ngoài cuộc trong vấn đề Biển Đông, Nga bắt đầu quan tâm với ý định trở lại khu vực, chí ít để tránh bị mất phần trong miếng bánh giữa các cường quốc. Tuy nhiên lập trường cụ thể của Nga vẫn còn là một ẩn số.
Tóm lại, điểm mới trong cục diện vấn đề Biển Đông sau Hội nghị thượng đĩnh ASEAN 21 cho thấy ở hai khía cạnh. Một là sự phân hóa ngày càng rõ trong nội bộ ASEAN giữa một bên là các nước thành viên bị đe dọa bởi đòi hỏi chủ quyền thái quá của Trung Quốc và một bên là những nước thành viên tự cảm thấy chưa bị đe dọa và lại có cơ hội hưởng lợi từ sự ve vãn của Trung Quốc. Hai là xu hướng tái hiện một chu kỳ mới của sự tranh giành ảnh hưởng giữa tất cả các cường quốc như đã từng xảy ra trong quá trình chiến tranh lạnh, có lẽ chỉ khác ở chỗ bãi chiến trường giờ đây là toàn bộ Biển Đông, bao gồm cả các quốc gia ven biển, chứ không phải trên đất liền Việt Nam và Đông Dương như trước đây.
Phải chăng diễn biến tình hình và quá trình tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Biển Đông đến nay khiến ta phải nghiêm túc xem xét lại vai trò vị trí của khối ASEAN cùng với các cơ chế ARF, ASEAN+ (?). Nhìn lại quá trình chậm chạp từ DOC sang COC trong 10 năm qua có thể thấy sự hạn chế đến mức bất lực của ASEAN trong giải quyết tranh chấp với Trung Quốc. Những kỳ vọng vào sự quay lại khu vực của Mỹ cũng tắt dần. Một kết cục "bùng nổ" nào đó ngõ hầu có thể ngăn chặn tham vọng của chủ nghĩa bành trướng bá quyền cũng khó diễn ra. Chỉ có sự vô lý ngày càng hiện rõ khi một mình Trung Quốc có thể quyết định tiến trình giải pháp từ chi tiết đến tổng thể, thậm chí bóp méo cả những khái niệm thông thường trong luật lệ và ứng xử quốc tế, như niệm đa phương/song phương, khái niệm bình đẳng giữa các quốc gia, v.v...; ngay cả Công ước Luật Biển 82 cũng bị thách thức! Thời gian càng trôi đi lợi thế càng thuộc về Trung Quốc, và "chúng ta không còn nhiều thời gian nữa" đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu Đông Nam Ấ kỳ cựu Carlyle A. Thayer mới đây . Chẳng lẽ cộng đồng quốc tế lại cứ khoanh tay đứng nhìn một nước lớn nuốt chửng cả vùng biển vốn đã từ lâu thuộc chủ quyền của nhiều quốc gia Đông Nam Á ? Chẳng lẽ những giá trị công lý cơ bản nhất mà loài người đã khókhăn lắmmới giành được lại có thể dễ dàng bị một cường quốc mới trỗi dậy ngang nhiên chà đạp?
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)