Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

Giới thiệu sách: Cổ Sử ‘Bách Việt Tiên Hiền Chí’

Hình minh họa
Bộ sử cổ "Bách Việt Tiên Hiền Chí - Lĩnh Nam Di Thư" là bộ sử liên quan đến Việt tộc, do sử gia Âu Ðại Nhậm viết xong vào năm Gia Tĩnh thứ 33 (1554), được sử quán nhà Minh và nhà Thanh coi là tài liệu lịch sử xác đáng dùng làm tài liệu để các sử gia Trung Hoa nghiên cứu và trích dẫn khi viết sử. Lần đầu tiên bộ sử này được dịch sang Việt ngữ bởi giáo sư Trần Lam Giang. Nội dung chính của quyển sách viết về 105 vị tiền nhân gốc Việt, trong đó có một số nhân vật đã trở thành nhân vật lịch sử, văn hóa vào bậc nhất mà người Tàu thường phô trương để hãnh diện. Những nhân vật tiêu biểu được sử gia Âu Ðại Nhậm ghi nhận, trước hết là vua Ðại Vũ mà sử quen gọi là vua Vũ trị thủy, vị vua sáng lập ra nhà Hạ. Vua Vũ là người Việt. Các khai quốc công thần nhà Hán như Hàn Tín, Mai Thừa, Anh Bố, Văn Ông, Tiêu Hà, Tào Tham cũng là người Việt. Thái Luân, người phát minh ra giấy viết ngày nay chúng ta xử dụng, người Tàu lấy làm hãnh diện là 1 trong tứ đại phát minh mà người Trung Hoa góp vào văn minh nhân loại. Theo Bách Việt Tiên Hiền Chí, Thái Luân là người Việt. Chưa hết, nhân vật Nhâm Diên (Tích Quang - Nhâm Diên) được sử Tàu dựng lên làm người cùng Tích Quang dậy dân ta cấy cày. Bách Việt Tiên Hiền Chí chỉ ra tiên hiền Việt tộc xuất chúng được Nhâm Diên bái làm thầy.

Sử gia Âu Ðại Nhậm viết: "Theo sách Nhất Lưỡng Hán Dư Ðịa Chí, Cối Kê bị chia thành hai phần: Ðan Dương và Dự Chương. Một phần thuộc cảnh giới Ngô, một phần thuộc cảnh giới Việt. Vốn xưa Cối Kê chỉ là đất của Việt, miêu duệ vua Hạ Vũ cai trị đất này. Từ sau biến cố lìa tan, đến định cư trên miền duyên hải Giang Nam, kẻ làm vương người làm quân trưởng, dòng dõi Bách Việt sinh sôi đông đảo, sống đời hạnh phúc, nức danh tươi tốt ở đây. Ðất nước của các quân trưởng, xa, đến tận Nam Hải, Quế Lâm. Từ Hán về sau, để tiện việc cất quân đánh chiếm, đã vẽ họa đồ phân chia Việt thành châu, thành quận lấy lệ mà thôi. Tên đất cũng là tự ý đặt, sai khác khá nhiều với tên đích thực. Nay muốn viết cho được đúng đắn, phải dùng sử sách của người bản xứ. Ðơn cử thí dụ, chẳng hạn như đất Lư Phượng, Hoài Dương, nhà Hán gọi bừa là quận Ðông Hải, quận Hoài Lâm. Tuy sách Hán Chí có vẽ bản đồ, phân định biên cương của Ngô-Thục; cũng vẫn chỉ là: vẽ cho có vẽ, không đúng sự thực..."

Tác giả Âu Ðại Nhậm đã vận dụng cách "lách" (viết lách mà !) tài tình để cuốn sách sử này được lưu truyền ngay trong lòng người TQ những kẽ luôn có dã tâm hủy diệt chứng liệu các dân tộc hình thành Trung Hoa. Dù thế, cuốn sách cũng trải qua 500 năm thăng trầm lưu lạc, trù dập. Cuối cùng, được xếp vào "Tứ Khố Toàn Thư", là bốn kho tàng trữ sách của triều Minh.

Như đã nói ở phần trên, nhà Hán đã chia cắt đất bị chiếm (của Việt tộc) ở phía Nam sông Dương Tử, đặt tên mới, xóa tất cả dấu vết cũ nên việc tìm hiểu tên người, tên đất cần phải tra cứu rất nhiều sách, nhất là các sách có bề dày lịch sử. Ngoài các bộ chính sử Trung Hoa, giáo sư Trầm Lam Giang còn tra cứu thêm nhiều sách trong Tứ Khố Toàn Thư, các bộ từ điển, tự điển uy tín Từ Hải, Khang Hy cho đến các bộ sách lưu hành rất giới hạn như Thủy Kinh Chú, Sơn Hải Kinh... để chú thích, dẫn giải toàn bộ Bách Việt Tiên Hiền Chí, Lĩnh Nam Di Thư.

Công trình dịch và chú thích của giáo sư Trần Lam Giang đã giúp Bách Việt Tiên Hiền Chí - Lĩnh Nam Di Thư thành chứng liệu lịch sử để người Việt Nam hiện nay và các thế hệ sau hãnh diện là người Việt. Từ trước đến nay, chúng ta thường có niềm tự hào là người Việt nhưng khi con cháu lớn lên chúng thường muốn có cái gì cụ thể để hãnh diện là người Việt Nam nhưng không tìm thấy và trở nên nghi ngờ . Bộ Bách Việt Tiên Hiền Chí - Lĩnh Nam Di Thư là chứng liệu lịch sử đáp ứng nhu cầu này. Sách được dịch sang Việt ngữ, chú thích công phu (nội dung chú thích dày hơn nội dung tác phẩm) và hơn thế nữa, đã in toàn bộ nguyên tác, bằng chữ Nho, để "nói có sách, mách có chứng".

Bách Việt Tiên Hiền Chí được viết từ hơn 500 về trước. Mãi đến ngày nay mới được dịch sang tiếng Việt. Công việc truy tầm nguyên bản, so sánh, đối chiếu cũng như dịch và chú thích cũng mất một khoảng thời gian khá dài, trên dưới mười năm. Ðó là chưa kể công việc lần theo các sử liệu có đề cập đến tác phẩm - là gợi ý tiên khởi - trong sử liệu Việt Nam trước đây. Đây không chỉ là công lao của dịch giả - giáo sư Trần Lam Giang mà còn là thành quả rất đấng được trân trọng của nhiều nhà nghiên cứu, những người quan tâm đến lịch sử, văn hóa dân tộc đang sống tại Hoa Kỳ vả trong Việt Nam .

Chủ blog biên soạn rút gọn nội dung trên đây và đưa tranh minh họa để bạn đọc tiện theo dõi . Bạn đọc có thể tìm đọc nguyên bản bài viết trên theo đường link dưới đây:http://www.vietlyso.com/forums/archive/index.php/t-6189.html















Tư liệu: Những phát ngôn ấn tượng năm 2011


Câu nói “cả một bầy sâu” của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang xứng đáng đứng đầu bảng top ten phát ngôn ấn tượng 2011. Một năm hết sức đặc biệt với quá nhiều những phát ngôn hết sức ấn tượng, ấn tượng hơn hẳn những năm trước. Hay do bệnh… “lở mồm”?

1- “Trước kia chỉ có một con sâu làm rầu nồi canh. Nay thì nhiều con sâu lắm! Nghe mà thấy xấu hổ. Không nhẽ cứ để mãi như vậy, mai kia người ta nói là cả một bầy sâu, tất cả là sâu hết. Thế đâu có được! Một con sâu đã nguy hiểm rồi. Một bầy sâu là chết cái đất nước này!”- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
2- “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, … khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”- Giáo sư tiến sĩ Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan.
3- Việc Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam là thể hiện tình cảm “yêu cho đòn cho vọt”- Phó chủ nhiệm Ủy ban biên giới quốc gia Nguyễn Duy Chiến.
4- “Dân có vàng thì dân giàu, mà nhà nước giữ vàng (của dân) thì nước sẽ mạnh”- Thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình.
5- “Biểu tình là ô danh… Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có thể chi tiền đài thọ cho một sự ô danh”- Đại biểu quốc hội Lăng Tần Hoàng Hữu Phước.
6- “Xảy ra chuyện như Vinashin, cuối cùng Thủ tướng đứng ra nhận trách nhiệm. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai”- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
7- “Có thể nói kỳ họp nào chính phủ cũng báo cáo một bản báo cáo hết sức hoành tráng và có sức thuyết phục… Tình hình biển Đông diễn biến phức tạp. Quần đảo Trường Sa bây giờ do Trung Quốc chiếm… Làm sao để nhiệm kỳ này cố gắng lấy lại quần đảo Hoàng Sa”- Đại biểu quốc hội Nguyễn Bá Thuyền.
8- “Nói biển Đông không phải chỉ là biển Đông. Nói biển Đông không phải chỉ quan hệ ta với Trung Quốc. Nói biển Đông không phải toàn bộ vấn đề biển Đông, nó chỉ có một cái chỗ quần đảo Hoàng Sa với lại quần đảo Trường Sa …”- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
9- “Tôi chỉ thực hiện lời hứa với các nhà văn. Còn cụ thể vì sao cần có luật nhà văn (nhà thơ) thì tôi cũng… chưa nghĩ ra!”- Đại biểu quốc hội Nguyễn Minh Hồng, người đề xuất ban hành luật nhà thơ (nhà văn).

10- “Tôi vinh dự được Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương cho thôi chức danh Bộ trưởng khi tín nhiệm trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của toàn ngành Thông tin và Truyền thông dành cho tôi đang ở đỉnh cao (93%)”- Lê Doãn Hợp, cựu Bộ trưởng TTTT.
2011 là năm khá đặc biệt, nhiều nhân vật ấn tượng và cũng quá nhiều phát ngôn ấn tượng. Không nhắc đến hoặc bỏ sót là một điều đáng tiếc. Vì thế xin giới thiệu thêm kế sau bảng “Top ten phát ngôn ấn tượng” là 10 phát ngôn ứng viên hụt (từ 11 đến 20), cũng không kém phần… ấn tượng!
11- “Ông Trương Tấn Sang trở thành vị tổng thống đầu tiên có tài hùng biện… là sự khởi đầu cho thời đại mới”- Đại biểu quốc hội Lăng Tần Hoàng Hữu Phước.
12- “Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, xét xử 2 cấp nên nếu thấy quyết định trái pháp luật thì có quyền hủy, trừ quyết định của Thủ tướng”- Chánh án Tòa tối cao Trương Hoà Bình.
13- “Điểm lịch sử thấp là vấn đề của thời đại… Việc có hàng ngàn điểm 0 trong kỳ thi tuyển sinh đại học- cao đẳng vừa qua là vấn đề bình thường”- Bộ trưởng Giáo dục & đào tạo Phạm Vũ Luận.
14- “Trung Quốc không sợ bất kỳ quân đội nào của thế giới. Trung Quốc chỉ sợ quân đội của đảng Cộng sản Việt Nam…”- Đại biểu quốc hội Lăng Tần Hoàng Hữu Phước.
15- “Chủ nghĩa Marx đã nói đến một lúc nào đó đảng không còn mà nhà nước cũng không còn thì Đảng “muôn thuở” thế nào được”- Cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc trả lời phỏng vấn BBC.
16- “Ta và Trung Quốc cần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết để hai dân tộc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội”- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
17- “Bùi Thị Minh Hằng mà ị ngay nhà tôi tôi cũng nói là c. Bùi Hằng thơm quá”- Châu Xuân Nguyễn.
18- “Anh mà gọi nó bằng con là tôi dập máy đấy!”- GS rùa Hà Đình Đức trả lời phỏng vấn BBC về “cụ” rùa hồ Gươm.
19- “Tôi hiểu trong 7 thành viên của Hội đồng đó thì có người có thể là chưa bao giờ đọc kịch của tôi, chưa bao giờ xem kịch của tôi… còn người thứ hai không bỏ cho tôi, tôi cũng không ngạc nhiên, vì có thể là họ chưa bao giờ biết viết kịch, và họ chưa bao giờ làm đạo diễn cả… Có khi là trong một liên hoan sân khấu, tôi mời người này mà không mời người khác tham gia ban chỉ đạo, chỉ vì thành phần đã đủ hay vì tính chất cuộc liên hoan… bây giờ họ được ngồi trong Hội đồng, nhớ chuyện cũ và không bỏ phiếu cho tôi… tôi xứng đáng không chỉ dừng ở Giải thưởng nhà nước mà cả ở Giải thưởng Hồ Chí Minh”- Trung tướng Công an, anh hùng lao động, nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà biên kịch, nhạc sĩ, họa sĩ Hữu Ước phát biểu sau khi bị loại khỏi danh sách ứng viên giải thưởng nhà nước..
20- “Đúng là quá bẩn, ăn chi toàn là đồ bẩn!”- Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến.
Nguồn: Blog Trương Duy Nhất




Thứ Ba, 27 tháng 12, 2011

Biển Đông: Gió đang đổi chiều

"Phép thử" Trung Hoa tại Biển Đông đã thất bại?
Có nhiều cách nói ví von về gió, như “gió chiều nào xuôi chiều đó”, “gieo gió gặt bão”, “gió đông thổi bạt gió tây”, “đòn gió”, v.v… Chuyến thăm Việt Nam và Thái Lan của Phó Chủ tịch nước TQ Tập Cận Bình mới đây cũng là một loại gió, và có lẽ cơn gió này nhằm ngăn chặn một cơn bảo ngược chiều đang tích tụ từ chân trời, đó là sự trở lại triển khai lực lượng quân sự Mỹ tại khu vực châu Á –TBD mà trọng tâm là vành đai chạy từ Nhật Bản, Hàn Quốc xuống khối SEATO (cũ) liên kết với khối ANZUS ở phía Nam và Ấn Độ ở phía Tây. Bước đi này của Hoa Kỳ diễn ra trong bối cảnh cộng đồng ASEAN đạt được sự thống nhất cao trong vấn đề Biển Đông tại Hội nghị cấp cao ASEAN Bali, Indonesia khiến Bắc Kinh càng khó xử.
Thông điệp của chuyến đi là khá rõ ràng: Với tư cách phó Chủ tịch nước, chuyến thăm lần này của ông Tập tuy không ồn ào, nhưng có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Đây là chuyến vi hành mở đầu của người sẽ cầm lái con thuyền Trung Quốc ít nhất trong một thập kỷ tới. Bắc Kinh đã khéo léo chọn cơ hội này để phát đi một tín hiệu về sự thay đổi chiến thuật đối với khu vực Châu Á-TBD, đặc biệt đối với Biển Đông, nơi mà biện pháp dùng “phép thử” bằng sức mạnh đã cho thấy thất bại và họ buộc phải điều chỉnh theo hướng ôn hòa hơn, kết hợp sức mạnh quân sự và "sức mạnh mền". Dấu hiệu có thể thấy ở sự lắng diệu tình hình Biển Đông gần đây với ít hơn các vụ quấy rối của tàu thuyền TQ trong khi Tân hoa xã chủ động đưa tin khá đậm nét về chuyến thăm của ông Tập như một thiện chí hòa bình hữu nghị. Một động thái đáng lưu ý khác là, phía TQ tuyệt nhiên không phản ứng gì trước lời tuyên bố chủ quyền của Thủ tướng Việt Nam với những từ ngữ cụ thể và nêu đích danh “Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974”, v.v… Khi ở thăm Việt Nam và Thái Lan ông Tập cũng không chủ động nêu vấn đề tranh chấp Biển Đông mà chỉ tập trung về hợp tác kinh tế, tài chính, thương mại (cho VN vay 300 triêu USD, cho Thái Lan vay theo phương thức hoán đổi đồng tiền hai nước với trị giá 11 tỷ USD, và hàng loạt hợp đồng khác). Những cử chỉ trên hoàn toàn khác với những gì mà phía Trung Quốc thường thể hiện trong mấy năm qua.Hiện tại còn quá sớm để khẳng định điều gì, nhưng rõ ràng đang có những động thái mới từ phía Bắc Kinh theo hướng ôn hòa. Có lẽ giới lãnh đạo nước này giờ đây đã thấm thía với lời khuyên của tiền nhân Đặng Tiểu Bình: Hãy “ẩn mình” trước khi đủ mạnh. Quả vậy, vừa qua họ đã quá nôn nóng muốn đạt mục tiêu bá chủ Biển Đông bằng cách phô trương lượng quá sớm, quá trắng trợn., và rốt cuộc đã tạo cớ cho quân đội Mỹ trở lại Châu Á –TBD nơi mà chính người TQ đã mất ½ thế kỷ để xua đuổi Mỹ đi. Có thể nói, không còn bài học nào thấm thía hơn thế đối với Bắc Kinh.

Quan hệ Việt-Trung: Láng giềng không bình đẳng
Có thể nói, cả hai bên TQ và VN đến nay đều thấu hiểu "bụng dạ” của nhau, chỉ còn vấn đề là lập trường của mỗi bên trong tranh chấp biển đảo không dễ san bằng. Đã bao đời người TQ luôn tự coi mình là một dân tộc lớn, một nước lớn, và có sứ mệnh “do trời ban cho”. Cách tư duy này dù muốn hay không, luôn tác động trực tiếp đến chính sách đối ngoại của họ và cũng là nguyên nhân sâu xa của tư tưởng sô vanh nước lớn và chủ nghĩa bá quyền - điều mà tuy không được tuyên bố công khai nhưng vẫn luôn được dung túng tại nước này.Việt Nam do vị trí địa lý phải hứng chịu hậu quả của thứ chủ nghĩa bành trướng bá quyền truyền kiếp như vậy. Một số cuộc khảo sát quốc tế gần đây cho thấy đại đa số người TQ được hỏi tin rằng Biển Đông là của cha ông họ nhưng bị Việt Nam và các nước nhỏ xung quanh chiếm đoạt, và do đó bây giờ họ có quyền đòi lại là lẽ đương nhiên! Đó cũng là lý do tại sao có tới hơn 80% ý kiến tán thành “đánh” Việt Nam vì tội xâm chiếm nhiều biển đảo của người Trung Quốc (!?)”. Được biết, trong dịp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm TQ, một quan chức TQ so sánh rằng nếu nhân dân VN biểu tình chống TQ thì hãy nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra khi 1,3 tỷ dân TQ cũng biểu tình chống VN(?). Đó không phải là một sự so sánh, mà là một lời đe dọa! Đó là cách tư duy điển hình của người TQ, không chỉ về con người mà còn về sức mạnh kinh tế, quân sự, không chỉ đối với Việt Nam mà đối với tất cả các nước. Ở đâu họ thấy mình đông hơn, mạnh hơn là họ lấn lướt. Thế mới có chuyện họ chủ trương huy động số đông tàu thuyền để lấn chiếm ngư trường của Việt Nam và của các nước khác. Mới đây họ dùng thuyền đánh cá kết bè lại để đối phó với tàu tuần tra Hàn Quốc.Phải chung sống đời đời kiếp kiếp với một nước láng giềng như vậy, người Việt Nam đã hình thành một truyền thống mang tính đặc thù, đó là vừa phát huy tinh thần dân tộc quật cường, vừa phát huy tinh thần nhẫn nhục chịu đựng, để tồn vong trước một đối phương lúc nào cũng lăm le nuốt chửng mình. Đó là lý do mà lịch sử luôn hằn sâu dấu vết của điều trăn trở từ bao thế hệ người Việt: “Đánh hay hòa...hòa hay đánh... ?”. Đây chính là cái khó đối với dân tộc Việt Nam, cũng là cái khó đối với giới lãnh đạo đất nước trong bất cứ thời kỳ nào. Ta và đối phương đều có lúc thịnh lúc suy. Thời nào cũng có kẻ cơ hội bán nước cầu vinh. Nhưng hào kiệt thời nào cũng có. Và đó là bí quyết sinh tồn của dân tộc Việt Nam.

"Bằng mặt không bằng lòng"
Trong chuyến thăm hữu nghị của Phó Chủ tịch Tập Cận Bình mới đây có một số động thái đáng lưu ý. Đó là trong khi phía khách không chủ động nêu vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, thì phía chủ nhà đã chủ động nhắc lại vấn đề tranh chấp Biển Đông (cả trước và trong chuyến thăm). Đây là một động thái mới đáng nghiên cứu. Về hình thức, ta thấy một số hoạt động hưởng ứng chuyến thăm như cầu truyền hình, giao lưu thanh niên…, nhưng thực sự đều diễn ra một cách rời rạc, gượng gạo. Cũng thấy có sự chậm trễ trong việc đưa tin và những sai sót lễ tân như vụ “cờ TQ có 6 sao”,v.v… Suy cho cùng, những biểu hiện trên đây cho thấy ít nhiều tình trạng thiếu nhất quán giữa các cơ quan tổ chức sự kiện của phía Việt Nam. Còn những “lời hay ý đẹp” hai bên giành cho nhau trong chuyến thăm là điều dễ hiểu, không nên dựa vào đó để đánh giá thực chất vấn đề. Thực chất nằm trong lòng dân chúng khi họ quay lưng lại với khẩu hiệu “hữu nghị Việt –Trung”, thậm chí biểu thị thái độ bất tín, bất bình trước chủ trương quá mền mỏng của lãnh đạo mà họ cho là nhu nhược, hèn nhát...
Tóm lại, tất cả những dấu hiệu nêu trên cho thấy có sự khác biệt quan điểm trong nội bộ Việt Nam, đặc biệt giữa Lãnh đạo và dân chúng, liên quan đến quan hệ Việt-Trung, nỗi cộm là vấn đề lựa chọn đối sách trước âm mưu bành trướng, lấn chiếm biển đảo từ phía nước láng giềng phương Bắc . Dường như có sự lung túng về đường lối và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của đất nước mặc dù chủ đề này vẫn thường được nhắc đi nhắc lại và trong các văn kiện của Đảng và các diễn đàn Quốc hội và Chính phủ. Từ khi có phương châm “làm bạn với tất cả”, Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong các lĩnh vực đối nội , đối ngoại, nhưng có lẽ chưa có sự thay đổi căn bản nào trong quan hệ với nước láng giềng phương Bắc. Trở lực chính có lẽ là do ý thức hệ đã ăn sâu bám rễ trong một bộ phận lãnh đạo và dân chúng. Đó là nguyên nhân vì sao bất chấp mọi hành động, thậm chí xâm phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo từ phía đối phương, nhưng giới chức và truyền thông Việt Nam vẫn lặp đi lặp lại điệp khúc “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, "láng giền tốt, đồng chí tốt"..., dù đó có là quan hệ bề ngoài theo kiểu "bằng mặt không bằng lòng đi chăng nữa!

Thách thức và cơ hội một lần nữa mở ra đồng đều đối với VNCho đến nay nhìn lại ta thấy, bất chấp mọi sự điều chĩnh chiến lược của TQ và các nước lớn trong thời gian qua , Việt Nam chưa hề có sự điều chỉnh đáng kể nào trong quan hệ song phương với TQ. Nói cách khác “đường đi nước bước” của Việt Nam vẫn chưa thực sự rõ nét, và đó là một trong những nguyên nhân khiến Việt Nam đã để nhỡ mất nhiều cơ hội. Nhiều ý kiến khách quan của người ngoài và cả trong nôi bộ lãnh đạo Việt Nam đều thừa nhận điều này. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến trạng thái “chênh vênh” trong thế trận của Việt Nam mỗi khi có sự cố tranh chấp lãnh thổ với ông bạn láng giềng phương Bắc? Bài học chiến tranh biên giới cùng hàng loạt các cuộc xung đột biển đảo đã chứng minh điều đó.Phải chăng giờ đây cơ hội đồng thời với thách thức lại một lần nữa mở ra đối với Việt Nam ?. Cuộc đấu tranh còn ở phía trước, đó là một chặng đường dài đầy khó khăn phức tạp. Dư luận đã từng nhận xét rằng nếu đối phương công khai nóng vội dùng vũ lực xâm lược thì đó là một tình huống không mong muốn nhưng cũng là tình huống đơn giản đối với Việt Nam . Nếu đối phương sử dụng chiến thuật lâu dài bằng các thủ đoạn kinh tế và “diễn biến hòa bình” thì vấn đề khó khăn, phức tạp hơn. Và đây dường như là kịch bản mới đang bày ra đối với Việt Nam.
Để đón nhận cơ hội và đối phó thách thức, có lẽ ngoài việc phát huy những bài học kinh nghiệm của bản thân, VN cần học kinh nghiệm của một số quốc gia nhỏ cận kề Trung Quốc như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và cả Đài Loan, Hồng Kông là những quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhỏ yếu hơn TQ nhiều lần nhưng vẫn duy trì độc lập bình đẳng với TQ để phát triển kinh tế mạnh hơn cả TQ. Vẫn biết một nước như VN nếu chủ trương đối đầu với TQ là không khôn ngoan, nhưng nếu cứ duy trì mãi trạng thái quan hệ bị ràng buộc bởi “ý thức hệ chính trị” thì còn nguy hại hơn. Trong nhiều bài học, thiết nghĩ có hai bài học nhãn tiền là: Biển Đông , bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa, là cửa ngõ sống còn của Việt Nam không ai có quyền xây rào chắn lối; và muốn bứt phá và triển kinh tế một cách bền vững , Việt Nam không thể quay lại dựa vào công nghệ của TQ ./.



























Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

Nên hiểu thế nào về vụ "cờ 6 sao"?


Dư luận trong nước và phần nào đã lan ra nước ngoài đang xôn xao về sự cố “cờ Trung Quốc 6 sao” được các em học sinh Việt Nam cầm vẫy chào trong lễ đón Phó Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Việt Nam ngày 20/12/2011.
Thiết nghĩ dư luận hoàn toàn có lý để “bức xúc” trước một lỗi sai sót nghiêm trọng như vậy dù với bất cứ lý do gì, kể cả nếu thực sự có âm mưu chính trị của ai đó, nhất là khi không có sự giải thích kịp thời và rõ ràng từ phía các cơ quan chức năng Nhà nước.
Tuy nhiên, mặt khác mỗi người cũng nên tìm hiểu, suy ngẫm thấu đáo trước khi đưa ra ý kiến bình luận,suy diễn..., vì thông thường điều tai hại không chỉ ở sự sai sót mà còn ở cách suy diễn xung quanh nó. Và trách nhiệm của người gây ra sai sót không nghiêm trọng bằng trách nhiệm của người không biết cách xử lý đúng đắn đối với sự sai sót.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế đã từng có nhiều trường hợp sai sót liên quan đến các lá cờ quốc gia, có thể do vô tình hoặc do tắc trách, cũng có thể do động cơ chính trị. Trong mọi trường hợp, việc xử lý đúng phương pháp từ phía nhà chức trách sẽ có tác dụng ngăn chặn, thậm chí loại bỏ những tác động xấu không đáng có. Đó phải là cách xử lý không chậm trễ, với thái độ cầu thị và biết nhận lỗi một cách công khai, minh bạch. Nếu làm ngược lại có thể gây ra những hậu quả tai hại hơn nhiều.
Rất tiếc trong trường hợp cụ thể của “vụ cờ TQ 6 sao” vừa qua , ta thấy các cơ quan hửu trách của Việt Nam đã xử lý không thỏa đáng; và đó là một nguyên nhân chính dẫn đến những suy luận phức tạp gây hậu quả xấu. Theo một thông báo khá chậm trễ và không rõ ràng của Người phát ngôn VN, đó là “lỗi kỷ thuật” (tức không phải âm mưu chính trị). Vậy thì vấn đề đáng ra rất đơn giản nếu nó được phát hiện sớm và giải thích công khai trước công chúng. Nhưng rất đáng tiếc và cũng khó hiểu tại sao Ban tổ chức đón tiếp đoàn (thường là một cơ chế liên ngành) đã không kịp thời nhận ra sai sót, và đến nay vẫn chưa chính thức nhận lỗi(?). Nếu chỉ có một thông báo ngắn ngủn trên website của Bộ Ngoại giao là hoàn toàn chưa đủ. Sự kiện sai sót này cần được chính thức xin lỗi trước công chúng qua các phương tiện thông tin đại chúng thì mới đúng.

Một khía cạnh khác cần bàn thêm là, phải chăng một số người, có lẽ vì quá nhiệt huyết yêu nước hoặc do định kiến nào đó(?) đã có cách suy diễn thiếu cơ sở rằng ngôi sao thứ 6 là Việt Nam, hoặc có ai đó muốn "bán" nước cho TQ, v.v... Thiết nghĩ, nếu thật sự có một "âm mưu" thì đó là của những kẻ điên cuồng! Vậy tại sao người yêu nước Việt Nam lại “tiếp tay” cho những kẻ đó?
Nhân đây xin nhắc lại rằng, cờ đỏ sao vàng của VN ra đời từ năm 1940 (khi còn là Mặt trận Việt Minh) trong khi cờ TQ ra đời năm 1949 khi họ giành được độc lập. Tức là cờ đỏ sao vàng  của VN ra đời trước cờ TQ !. Theo giải thích chính thức của TQ, 4 ngôi sao nhỏ là đại diện cho 4 giai cấp : công nhân, nông dân , tiểu tư sản và tư sản đoàn kết xung quanh Đảng CS (ngôi sao to). Đồng thời họ cũng có một cách giải thích rằng saolớnđại diện dân tộc Hán,  4 sao nhỏ đại diện các dân tộc: Mông, Hồi, Tạng, Mãn. Vậy nếu  để suy diễn, thì khả năng suy diễn ngôi sao thứ 6 đại diện cho dân tộc Việt (Bách Việt) bên trong nước TQ thì đúng hơn(?). Cách suy diễn này người  tàu không ưa vì nó chạm vào nỗi niềm sâu xa trong lịch sử hình thành nước Trung Hoa,  người Bách Việt đã tồn tại song song với người Hán từ lâu đời. Tuy nhiên trên thực tế các dân tộc Bách Việt vẫn tồn tại đến ngày nay dưới những tên gọi khác nhau ở miền Nam TQ ,kể cả khoảng 70 triệu người Choong (Tráng) tại Quảng Tây và Quảng Đông.

Tóm lại, trong "vụ cờ TQ 6 sao" lỗi của các cơ quan chức năng Nhà nước rất đáng phê phán về trình độ yếu kém và cung cách làm việc tắc trách; trước sai sót  không chịu công khai xin lỗi và giải bài trước công luận một cách đàng hoàng minh bạch.  Nhưng từ sai sót đó mà suy diễn rằng có âm mưu biến VN thành một dân tộc hay một tỉnh của TQ là không có sở. Xét trên một khía cạnh nào đó, cách suy luận như vậy là "lợi bất cập hại", nếu không nói là "tiếp tay cho giặc". Vậy có nên chăng?./.


Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

Tin liên quan chuyến thăm của Phó Chủ tịch Tập Cận Bình

Trên thực tế Phó Chủ tịch Tập Cận Bình đã đến sân bay Nội Bài chiều ngày hôm qua 20/12
và lễ đón tiếp đã diễn ra tại sân bay. Tuy nhiên cho đến sáng nay chưa thấy bất cứ một nguồn tin chính thức nào của VN đưa tin về sự kiện này trong khi China News vẫn liên tục đưa tin cập nhật vế sự kiện này từ mấy ngày trước, trong đó có tin về trả lời phỏng vấn của phó Chủ tịch Nguyễn Thị Doan  nhưng không nói rõ thời điểm trước hay sau khi ông Tập đến Hà Nội.
Tin mới nhất  do phóng viên China News từ Hà Nội thực hiện và được phát trong bản tin tiếng Anh từ Bắc Kinh lúc 16 giờ 59 phút 20 giây ngày 20/12/2011. Tin không nói rõ chi tiết lễ đón tại sân bay Nội Bài, nhưng có đăng 2 bức ảnh chụp ông Tập bước trên thảm đỏ giữa hai hàng tiêu binh phía sau là nền  của chiếc máy bay của hãng hàng không TQ; không thấy chua tên và chức vụ các quan chức VN ra đón nhưng qua ảnh có thể đoán người đứng cạnh bên trái ông Tập (ảnh bên phải dưới) nhiều khả năng là ông Đào Việt Trung-Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước.

Bản tin điểm qua tình phát triển quan hệ tốt đẹp giữa hai nước trên tinh thần 16 chữ và 4 tốt, nhưng không đá động gì đến chủ đề Biển Đông cũng như bất cứ vấn đề "gay cấn"nào trong quan hệ song phương Trung-Việt hoặc khu vực.  
Tin nhắc lại lịch trình sau chuyến thăm VN ông Tập sẽ thăm chính thức Thái Lan 3 ngày.

Chưa hiểu cách đưa tin như trên là do dụng ý của mỗi bên hay do lỗi sơ xuất của các cơ quan thông tấn (?)   
Bạn có thể tham khảo bản tin gốc tiếng Anh tại đây:         

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

Vài suy nghĩ trước chuyến thăm của ông Tập Cận Bình


Chỉ còn ít ngày nữa sẽ diễn ra cuộc thăm chính thức của Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đến Việt Nam dự định vào ngày 20/12 này. Xét trên mọi phương diện, đây không phải là một chuyến thăm xã giao thông thường mà là một chuyến công cán đầy toan tính của giới lãnh đạo Bắc Kinh. Về mặt nào đó chuyến thăm này còn quan trọng hơn chuyến thăm Trung Quốc mới đây  của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nếu như chuyến thăm của ông Trọng là “việc không thể đừng” và nặng về xã giao của người mới nhậm chức, thì chuyến thăm của ông Tập có đặc điểm hoàn toàn khác. Phía Trung Quốc cần chuyến thăm này hơn là phía Việt Nam; nhưng nó có thể đặt ra cho  Việt Nam những thách thức và cả cơ hội.
Cấp thấp tầm cao  
Trong lịch sử quan hệ Trung- Việt, kể cả trong những thời kỳ quan hệ tốt đẹp trước đây,  thường thấy lãnh đạo cấp cao VN sang TQ nhưng hiếm khi cấp cao TQ sang VN. Trong giai đoạn quan hệ không hoàn toàn bình thường hiện nay, việc một nhân vật như ông Tập Cận Bình đến VN là một việc không bình thường. Ông Tập thăm VN dưới danh nghĩa  là phó Chủ tịch nước nhưng mang sứ mệnh của người đứng đầu đảng và nhà nước T Q. Với truyền thống tư duy nước lớn của họ thì đây là thời điểm thích hợp để không phải mang tiếng “phá thông lệ”, nhưng vẫn cho thấy mối quan tâm đặc biệt của Bắc Kinh trước  diễn biến tình hình quốc tế và khu vực gần đây buộc họ phải có những bước đi kịp thời tại một số địa bàn trọng điểm, trong đó Việt Nam là một mắc xích .  Tóm lại, có thể hiểu  việc ông Tập Cận Bình đến Việt Nam lần này chủ yếu là xuất phát từ nhu cầu của phía Trung Quốc.    
Vì sao bây giờ, và con bài gì trong tay áo của ông Tập?
Nếu ta thử đẩy lùi thời gian về quảng nữa năm trước chắc sẽ khó mà có một chuyến thăm cấp cao như vậy trong khuôn khổ song phương Trung-Việt (ngoại trừ một số trường hợp lãnh đạo TQ sang VN để tham dự các hội nghị đa phương).  Câu hỏi đặt ra là tại sao một nhân vật sắp sửa nắm vị trí đứng đầu đảng và nhà nước Trung Quốc lại "hạ cố" sang thăm Việt Nam vào lúc này?
Phải chăng giới lãnh đạo Trung Nam Hải sau một thời kỳ "tự tung tự tác" với ý đồ độc chiếm Biển Đông nhưng bất thành , nay bắt đầu nhận ra sai lầm, và sự sai lầm đó đã khiến Trung Quốc không những bị cô lập trên trường quốc tế mà còn tạo cớ cho Mỹ quay lại khu vực trong sự hoan nghênh tán đồng của hầu hết các bên liên quan hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây. Hậu quả nhãn tiền là việc quân đội Mỹ đang được triển khai tại phía bắc nước Úc đồng thời được tăng cường trên khắp tuyến phòng thủ truyền thống chạy từ Nhật Bản, Hàn Quốc  xuống Philipine ,Singapore… và trong sự liên kết chặt chẽ hơn với Ấn Độ. Không nghi ngờ gì nữa, điều này đã và đang  tác động bất lợi cho Trung Quốc khiến họ lo lắng và phải tính đến biện pháp đối phó. Để làm điều này, Trung Quốc một mặt phải căng ra đối phó trực tiếp với Mỹ và đồng minh, một mặt phải  tìm cách giành giật lại vai trò ảnh hưởng đối với những địa bàn kế cận xung yếu, trong đó có Việt Nam và Myanma đang có nguy cơ tuột khỏi vòng tay ảnh hưởng của Bắc Kinh. Chia rẽ nội bộ ASEAN cũng là một thủ đoạn mà Trung Quốc đã và đang vận dụng khá thành công.
Đó chính là động cơ sâu xa của chuyến công du lần này của ông Tập Cận Bình đến Việt Nam. Người ta đang chờ xem con bài cụ thể nào ông ta sẽ rút ra từ trong tay áo của mình trong chuyến thăm Hà Nội. Đó có thể là một lời đề nghị, cũng có thể chỉ là một "động tác giả" nhằm đánh lừa dư luận phục vụ âm mưu chia rẽ cộng đồng ASEAN...    
Nguy cơ thách thức và cơ hội nào cho Việt Nam?
Có thể nói, một lần nữa thách thức và cơ hội đang mở ra đồng đều đối với Việt Nam. Thiết nghĩ, để ứng phó hửu hiệu với nước cờ mới của phía Trung Quốc, giới lãnh đạo Việt Nam trước hết cần  đứng vững trên mục tiêu chiến lược của dân tộc mình, đó là kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn chủ quyền quốc gia đồng thời giữ vững hòa bình để xây dựng đất nước. Cần thấy rằng diễn biến tình hình Biển Đông nói riêng và Châu Á-TBD nói chung trong thời gian gần đây đang chuyển mạnh sang thế có lợi cho Việt Nam và các nước nhỏ vốn bị Trung Quốc chèn ép và xâm lấn. Những lời tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ của giới lãnh đạo cấp cao Việt Nam gần đây , đặc biệt của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước Quốc Hội, được dư luận nhân dân đồng tình, được quốc tế đánh giá cao như một hướng đi đúng đắn của Việt Nam.
Vẫn biết, căn cứ vào so sánh lực lượng cũng như từ bài học lịch sử , nhân dân  Việt Nam không bao giờ chủ trương đối đầu với Trung Quốc. Tuy hiên, hơn lúc nào hết, giờ đây lợi ích sống còn của dân tộc đang một lần nữa bị nước láng giềng phương Bắc đe dọa và xâm phạm buộc người Việt Nam phải lựa chọn phương thức mới thích hợp để đấu tranh sinh tồn . Đại đa số nhân dân đã bày tỏ ý chí sẵn sàng dấn thân bằng cách  phát huy thế mạnh nội lực kết hợp với sức mạnh tổng hợp của thời đại, kiên quyết đấu tranh vì mục tiêu tối thượng là bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia, cụ thể là chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa cùng với toàn bộ vùng biển thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý theo đúng luật pháp quốc tế. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch không thể nhân nhượng.  Trên tinh thần đó nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước đang theo dõi sát sao diễn biến tình hình xung quanh chuyến thăm của ông Tập Cận Bình và hy vọng rằng  giới lãnh đạo đất nước sẽ nhân dịp này nhắc lại một cách rõ ràng, dứt khoát quan điểm mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trình bày trước Quốc hội mới đây. /.          
                     
Trần Kinh Nghị

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

Cầu truyền hình hay diễn biến hòa bình?

Tối hôm qua mình  kiên nhẫn ngồi xem từ đầu đến cuối chương trinh giao lưu cầu truyền hình trực tuyến “Hữu nghị Việt-Trung - Láng giềng gần”. Biết nói thế nào nhĩ?
 Quả là người Việt Nam ta có dòng máu hữu nghị thấm đậm trong tim. Vẫn biết nó bao phen xâm lược mình; hình ảnh những cuộc thảm sát trong  chiến tranh biên giới 1979,  và hình ảnh đám lính công binh Việt Nam mình trần tay không vũ khí tại đảo Gạc Ma 1988 bị tàu chiến chúng nó bắn xối xả cho đến khi không còn thấy bóng dáng trên mặt biển vẫn còn đó …Vậy mà thấy nhiều người ngồi xem trực tiếp hoặc qua màng hình TV vẫn xúc động trước những hình ảnh, lời ca và lời nói của các “nghệ nhân” trên sân khấu . Bản thân mình cũng suýt chảy nước mắt. Thế mới lạ chứ!?
Thì ra trọng nghĩa tình vừa là một đạo lý truyền thống tốt đẹp vừa là  "gót chân achilles" của người Việt. Nó có thể làm cho cả cơ thể yếu mềm; đôi khi yếu đến nỗi không dám chấp nhận và nhìn thẳng vào sự thật; thậm chí nếu có ai nói ra sẽ có người khác ra hiệu "im ngay"...không thì chết với nó đấy! Tức là vừa yếu vừa hèn.
Nhưng cũng không hoàn toàn đơn giản chỉ có vậy. Sự yếu hèn đó còn được tôn lên thành cái gọi là nghệ thuật “khôn khéo” .... Trong đám dân đen  vốn nặng tình nghĩa, ắt sẽ có kẻ cam tâm đứng ra mua bán tình nghĩa cũng là lẽ đương nhiên.  Số này thường vỗ ngực tự cho mình khôn khéo, tinh tường đến mức người thường không thể nào hiểu được(?) Chí lớn gặp nhau thế là hai bên đưa ra  sáng kiến mở ra cái gọi là "cầu truyền hình" để nhắc lại nghĩa cũ tình xưa...  Nhưng điều trớ trêu là cái cầu đó không hề có chân; nó diễn ra trong bối cảnh đầy nghịch lý khi một bên liên tục "dọa đánh" bên kia, với hàng loạt hành động lấn lướt trên biển cùng nhiều thủ đoạn lấn chiếm và phá hoại kinh tế dọc đường biên .  Đó là gì nếu không phải là trò "diễn biến hòa bình" mà lâu nay dân ta vẫn được nhắc nhỡ phải "đề cao cảnh giác"? Phải chăng "cầu truyền hình" chỉ là một cách để nối lại những nhịp cầu thực sự cho quân xâm lược vốn đã bị cắt đứt giữa những đợt chiến tranh xâm lược do chúng gây ra?

Hữu nghị  cũng phải có nguyên tắc và điều kiện của nó chứ! Đáng lẽ trước hết họ phải tỏ rõ thiện chí bằng một hành động thực tế , chí ít là ngừng ngay chiến dịch xâm lấn biển đảo của Việt Nam, tốt hơn là tuyên bố hủy bỏ lưỡi bò, tốt nhất là trả lại  Hoàng Sa và phần Trường Sa mà họ vừa xâm chiếm của Việt Nam. Đó là điều kiện tiên quyết cho mối quan hệ hữu nghị lâu dài thực sự giữa hai nước. Họ không làm thế lại còn "chơi tay trên" khi đem một đài truyền hình cấp tĩnh (Quảng Tây) bắc cầu với đài tuyền hình trung ương Việt Nam. Liệu đã có bao nhiêu% dân Trung Quốc xem chương trình này hay chỉ có nhân dân Việt Nam là chính? Đó là chưa nói về nội dung: Phần đầu có đề cập đến lưỡng tướng Nguyễn Sơn nhưng toàn bộ chương trình là để kể công lao của Trung Quốc. Coi chừng một ngày kia họ lại vu cho ta "vong ơn bạc nghĩa" để lấy cớ dạy thêm những bài học ...Đó vốn dĩ là "sách tàu" ai cũng biết.      
     
Thiết nghĩ, đức tính thân thiện, trọng nghĩa tình, nhất là đối với hàng xóm láng giềng, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam luôn cần được giữ gìn và hát huy. Nhưng bài học xưa và nay nhắc ta nhớ rằng đó cũng là yếu điểm mà kẻ thù của ta thời nào cũng khai thác lợi dụng cho mục tiêu xâm lược của chúng./.                

Thứ Hai, 12 tháng 12, 2011

Đâu chỉ là chuyện riêng tư

Gần đây khi đi ra đường hoặc ngồi quán , ta có thể nghe rõ ràng ai đó oang oang gọi mấy vị lãnh đạo  là ”thằng”, là ”lão”… Thấy oải quá ! Chẳng lẽ bây giờ lãnh đạo ta “xuống cấp” vậy sao? Xưa nay làm gì có chuyện  “thằng” này, “lão” nọ lại có thể lãnh đạo được nhân dân(?) Vậy mà giờ nhan nhãn ra đấy, từ cấp thấp lên cấp cao.  Nguy to rồi!
Có nhiều chuyện lắm, nhưng chuyện “thời thượng” (tiếng Anh gọi là talk-of-the town) đang tập trung vào một vị mà nay được gọi là “ông cựu tổng”.   Chuyện rằng ông cựu tổng vừa tổ chức một lễ cưới rất hoành tráng với một cô dâu vốn là người yêu của con trai mình. Cô dâu này lại là một nghị sĩ quốc hội!...và đã từng 3 lần lên xe hoa trước đó.  Ngạc nhiên chưa???   
Câu chuyện là vậy, nhưng nó không dừng ở đó. Nếu là một người bình thường lấy một cô vợ trẻ đôi khi lại được thiên hạ tán thưởng. Nhưng trường hợp này thì hoàn toàn khác. Nguyên chú rễ đã không bình thường vì từ ngày “thoái vị” đến nay chỉ 1/2năm và cũng chưa đầy 1 năm góa vợ . Hồi còn tại vị chú rễ ngày nào cũng nêu cao tấm gương đạo đức Hồ chí Minh…, nhưng không hiểu sao bổng chốc lại hạ ngay tấm gương xuống mau lẹ như vậy (?). Tình hình gia thất đang đề huề như thế bổng tan tành mây khói  với việc thằng con đích tông đích thép vì ghen ăn tức ở mà tuyên bố “từ cha”… nhưng không từ quan đâu nhé (!)- cái chức mà ông bố vừa “cơ cấu” cho ít ngày trước khi thoái vị.
Vốn không ưa đưa chuyện, nhất là chuyện nhà người ta,  nhưng nhận thấy chuyện trên đây hoàn toàn không chỉ là "chuyện riêng tư" nên tôi buộc lòng phải nói đến, nhất là giờ đây khi nó đã trở thành công khai. Thiết nghĩ đó là một phần của cái thông điệp buồn bã nhất của đất nước chúng ta: Chưa  bao giờ hình ảnh lãnh đạo chính trị của đất nước lại bị hạ thấp như bây giờ. Chẳng hay tập thể Lãnh đạo (giờ thì chỉ có cách dùng từ “tập thể” cho nó an toàn) có biết và có tính đến biện pháp gì để “khắc phục"?, kẽo đến một ngày dân nỗi cơn qua… ./.  
     

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

Vì sao qúa trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ kéo dài?

Lời giới thiệu của chủ blog: Dưới đây lả trích đăng bài viết gồm 2 phần của nhà báo Huỳnh Phan sau cuộc phỏng vấn  Nguyên Thứ trưởng Ngoại Giao, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Lê Văn Bàng, người đã trực tiếp chứng kiến và tham gia quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước "cựu thù". Hy vọng bạn đọc được giải đáp một phần những thắc mắc vấn vương trong đầu với một số điều sự thật đàng sau quá trình bình thường hóa quan hệ "chậm chạp" giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ nói ra từ một "người trong cuộc". 
      
                                                   Nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng
Phần I: Rơi vào ván bài nước lớn, Việt Nam lỡ bước
Việt nam đã đi gần đến nơi, nhưng câu chuyện chiến lược đã cản trở. Việt Nam đã tình cờ rơi vào ván bài chiến lược của các nước lớn, và lại là một con bài chẳng mấy quan trọng, có thể bị "dập" bất cứ lúc nào.
LTS: Có thể nói trong quá trình bình thường hoá và phát triển quan hệ Việt - Mỹ gần 4 thập kỷ qua, ông Lê Văn Bàng là người chứng kiến và tham gia ở các mức độ khác nhau hầu như từ đầu tới cuối.
Từ một chuyên viên theo dõi tình hình thực hiện Hiệp định Paris, theo dõi báo chí và dư luận Mỹ để báo cáo cho lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Chính trị, đến vị trí phụ trách quan hệ của Vụ Bắc Mỹ.
Từ một trưởng phòng liên lạc, đại biện lâm thời, rồi trở thành đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Mỹ.
Thôi chức thứ trưởng ngoại giao vào đầu năm 2008, ông lại tham gia dự án KX03 về chính sách đối ngoại của Đảng, trong đó phần của ông là quan hệ song phương Việt - Mỹ trong các mối tương quan song phương và đa phương khác.
Kể từ tháng 4. 2011, ở tuổi 64, ông lại tham gia vào một chương trình khác liên quan đến hai quốc gia nhiều duyên nợ này - dự án bệnh viện Việt - Mỹ.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu của trao đổi với cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng về những dấu mốc trong tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, với cả những nỗ lực xích lại gần nhau và những hiểu lầm, những bước tiến và bước hụt, trong những bối cảnh lợi ích của hai bên tham gia tiến trình này bị tác động, chi phối bởi những lợi ích trong những mối quan hệ khác.
- Nhà báo Huỳnh Phan: Lần đầu tiên ông tiếp xúc với người Mỹ là khi nào?
- Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng:Đó là khi ông Henry Kissinger vào Hà Nội đầu năm 1973 (10.1-13.1), do ông Lê Đức Thọ mời, trước khi hai bên chính thức ký Hiệp định Paris vào 27.1.1973. Một dịp may bất ngờ đối với một nhân viên ngoại giao mới vào ngành được vài tháng như tôi (ông Lê Văn Bàng vào Bộ Ngoại giao tháng 10.1972, sau khi tốt nghiệp đại học ở Cuba, chuyên ngành tiếng Anh - TG).
Đoàn của ông Kissinger đến Nội Bài vào buổi tối. Khi đó, sân bay Nội Bài còn tung toé hết lên, chỉ được mỗi cái đường băng là tử tế. Tôi được giao toàn bộ nhóm phi công chuyên cơ, khoảng 20 người, làm hướng dẫn và phiên dịch cho họ.
Tuy vậy, tôi vẫn có hai kỷ niệm đáng nhớ về ông Kissinger.
Kỷ niệm thứ nhất là khi dẫn cả đoàn ông Kissinger đến thăm Bảo tàng Mỹ thuật (ở đường Nguyễn Thái Học), nhân dân nghe tin có Kissinger đến, họ tập trung rất đông dưới sân bảo tàng biểu tình phản đối. Nhiều người còn cầm đá, cầm gạch, bịt chặt cửa không cho đoàn ra.
Tôi cảm thấy căng quá. Hà Nội vừa mới trả qua đợt tàn phá kinh khủng của B52 Mỹ suốt 12 ngày đêm mà. Tuy nhiên, cuối cùng, chúng tôi cũng dẫn được đoàn Kissinger ra ngoài theo lối cửa sau, ra đường Cao Bá Quát.
Kỷ niệm thứ hai là khi dẫn ông tới Bảo tàng Lịch sử. Khi nghe dịch cái biển ghi 4 câu thơ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư", ông ấy nói luôn: "Đây là Điều khoản 1 của Hiệp định Paris (khẳng định độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam)".
Ấn tượng của ông về ông Kissinger?
Trước đó, tôi cũng đọc nhiều về Kissinger, và, khi gặp, tôi cảm nhận ông quả là một người giỏi giang, uyên bác, và có nhiều mưu mẹo. Hơn nữa, đối đầu được với ông Lê Đức Thọ trên bàn đàm phán suốt 4 năm ròng chắc hẳn không phải tay vừa.
Ý ông muốn nói đến việc ông Kissinger đã khéo léo "đẩy" cam kết cụ thể phía Mỹ trong viện trợ giúp hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết thời hậu chiến ở Việt Nam (3,25 tỷ USD viện trợ không hoàn lại trong 5 năm và khoảng 1-1,5 tỷ USD viện trợ lương thực và hàng hoá), như ông Lê Đức Thọ đã kiên quyết đòi hỏi, sang bức công hàm của Tổng thống Richard Nixon gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng (ngày 1.2.1973)?
Hơn nữa, trong bức công hàm này, Tổng thống Nixon còn gài thêm rằng "mỗi thành viên thực hiện theo những quy định của Hiến pháp của mình". Theo qui định của Hiến pháp Mỹ, có viện trợ không và viện trợ bao nhiêu là do bên lập pháp quyết định, chứ không phải bên hành pháp.
Đúng vậy. Và không ngờ đó lại là chỗ nghẽn trong đàm phán bình thường hoá giữa Việt Nam và Mỹ trong những năm sau đó.
Trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, phía Việt Nam đã chiến thắng khi buộc Mỹ phải ký hiệp định hoà bình và rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, tiếp nhận một đất nước bị tàn phá vào thời điểm thống nhất đất nước, cộng với kinh tế ngày càng khó khăn những năm sau đó, yêu cầu kiên quyết của phía Việt Nam là Mỹ viện trợ để tái thiết, theo điều khoản 21 của hiệp định, là hoàn toàn hợp lý.
Tuy nhiên, kể từ khi Tổng thống Jimmy Carter của Đảng Dân chủ lên nắm quyền (đầu năm 1977), và thể hiện mạnh mẽ mong muốn bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, ông ta lại vấp phải một thách thức rất lớn từ phái Cộng hoà trong Quốc hội.
Khi thấy vấn đề MIA/POW (người mất tích trong chiến tranh và tù binh) của Mỹ bị phía Việt Nam gắn với điều 21 của Hiệp định, và cả bức thư hứa hẹn của Tổng thống Nixon, những nghị sĩ Cộng hoà đã phản ứng rất mạnh. Đỉnh điểm là đầu tháng 5.1977, khi Mỹ và Việt Nam bắt đầu đàm phán bình thường hoá ở Paris, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu cấm bất kỳ viện trợ nào cho Việt Nam.
Có phải đó là lý do, trong chuyến đi một số nước châu Á vào tháng 7.1978, Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền đã tuyên bố với báo chí quốc tế là Việt Nam không yêu cầu thực hiện điều 21 của hiệp định nữa, hay không? Bởi trong ba vòng đàm phán trong năm 1977 ở Paris, do chính ông Phan Hiền làm trưởng đoàn, Việt Nam luôn coi việc thực hiện điều 21 là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá.
Tôi nghĩ còn có thêm một lý do quan trọng khác nữa. Đến lúc đó, lãnh đạo Việt Nam đã nhận thức được tình hình đã thay đổi quá nhiều, nhất là sự căng thẳng với Trung Quốc, với việc cắt viện trợ và rút chuyên gia về nước, và Campuchia, khi chính quyền Khmer Đỏ đã có các cuộc xâm phạm biên giới phía Tây Nam, lên tiếng đòi xem lại vấn đề phân định lãnh thổ giữa hai nước, cũng như cắt đứt quan hệ ngoại giao.
Việt Nam, lúc đó, đã đồng ý vào COMECON (Hội đồng Tương trợ Kinh tế), chuẩn bị ký một hiệp ước đồng minh với Liên Xô, và cho phép hải quân của họ sử dụng Cảng Cam Ranh. Đổi lại, Liên Xô cam kết tăng viện trợ cho Việt Nam.
Tức là đến thời điểm đó, lãnh đạo Việt Nam đã có sự chuyển hướng chiến lược. Và, như vậy, nhu cầu tái thiết từ viện trợ của Mỹ không còn quan trọng như trước nữa.
Tức là chính sức ép từ phía Bắc, và phần nào đó từ phía Tây Nam, đã khiến lãnh đạo Việt Nam quyết định phải nhanh chóng bình thường hoá vô điều kiện với Mỹ?
Đúng vậy. Trước sức nóng chủ yếu từ phương Bắc, nếu khộng có luồng gió ôn hoà từ phía Tây thì căng lắm. Và, vì vậy, vào tháng 9.1978, Việt Nam cử một trưởng đoàn mới là Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch sang đàm phán kín với Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Holbrooke, chấp nhận bình thường hoá vô điều kiện.
Thoả thuận xong với ông Holbrooke, ông Thạch chờ suốt mà không có câu trả lời từ Bộ Ngoại giao Mỹ. Sự nhượng bộ của Việt Nam đã quá muộn, bởi, trong thời gian đó, đã có những biến chuyển mạnh mẽ của tình hình thế giới, và Mỹ không thể ứng xử như cũ. Bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc lúc đó là ưu tiên hàng đầu của Mỹ.
Mike Morrow, người đầu tiên phỏng vấn được ông Nguyễn Cơ Thạch khi ông lên nhậm chức Bộ trưởng Ngoại giao năm 1980, có kể rằng, trong cuộc phỏng vấn đó, ông Thạch tiết lộ rằng ông đã nói thẳng với người đồng cấp Holbrooke rằng Mỹ không cần phải lựa chọn giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tức là có thể bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, rồi sau đó với Việt Nam.
Việc Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Trần Quang Cơ, người sang New York cùng ông Thạch hồi tháng 9.1978,  còn cố chờ sang cả tháng 1.1979, tức là sau khi Mỹ đã ký thoả thuận xong với với Trung Quốc, càng khẳng định cho quyết tâm "còn nước còn tát" này của phía Việt Nam.
Đúng là Việt Nam đã thực sự hy vọng sẽ bình thường hoá được với Mỹ trong thời gian đó. Tôi còn nhớ là đã được Bộ Ngoại giao cử vào biên chế đại sứ quán tương lai, phụ trách mảng văn phòng. Tuy đại sứ chưa chọn, nhưng biên chế sứ quán thì đâu vào đấy. Tháng 12.1978, Bộ Ngoại giao Mỹ còn chuyển cho phía Việt Nam ảnh chụp toà đại sứ ở Washington D.C. của chính quyền Sài Gòn cũ nữa.
Tức là chúng ta đã tính đến việc lập ngay sứ quán khi thoả thuận bình thường hoá được ký kết.

Phóng viên kỳ cựu của hãng AP là Peter Arnett, người đã tháp tòng đoàn nghị sĩ Mỹ vào Hà Nội mùa hè năm 1976, đã nói rằng dưới thời Tổng thống Carter, Mỹ muốn cải thiện quan hệ của mình ở Trung Mỹ với việc trả kênh đào Panama cho nước này quản lý. Ông đã tập trung nhiều công sức và thời gian để thuyết phục Quốc hội phê chuẩn hiệp ước mà ông ký với Tướng Omar Torrijos vào tháng 9.1977, và vì vậy đã sao nhãng phần nào câu chuyện bình thường hoá với Việt Nam.
Ông có ý kiến gì về nhận định đó?



Tôi nghĩ ông ta hoàn toàn chính xác khi nói tới nỗ lực của Tổng thống Carter trong việc lấy lại hình ảnh và ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Mỹ, và Mỹ La tinh nói chung. Bởi, sau Việt Nam, Mỹ thất thế cả về uy tín lẫn kinh tế, và Liên Xô đã tranh thủ mở rộng ảnh hưởng, rất mạnh. Họ vươn tay tới Angola, Mozambique, hay Ethiopia ở châu Phi, và nhất là Nicaragua - một quốc gia nằm ngay "sân sau" của Mỹ.
Nhưng quan trọng hơn, Mỹ đã phải tập trung vào "con bài" Trung Quốc, dựa trên cơ sở sự bất đồng sâu sắc giữa Liên Xô và Trung Quốc, nhằm thay đổi cán cân quyền lực trên thế giới giữa Mỹ và Liên Xô.
Đến thời điểm lãnh đạo Việt Nam thực sự mong muốn bình thường hoá ngay với Mỹ, phía Mỹ lại chưa muốn. Bởi, như vậy, họ khó thúc đẩy bình thường hoá và cải thiện quan hệ với Trung Quốc được.
Tóm lại, Việt nam đã đi gần đến nơi, nhưng câu chuyện chiến lược đã cản trở. Việt Nam đã tình cờ rơi vào ván bài chiến lược của các nước lớn, và lại là một con bài chẳng mấy quan trọng, có thể bị "dập" bất cứ lúc nào.
Khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia cuối năm 1978, mọi mối tiếp xúc hầu như bị cắt đứt. Ngay cả vấn đề MIA/POW, một trong những lời hứa của ông Jimmy Carter với hiệp hội những gia đình có người Mỹ mất tích trong chiến tranh khi tranh cử, Mỹ cũng chẳng quan tâm nữa.
Thậm chí đến năm 1981, khi chúng tôi đã chuẩn bị rất kỹ một chuyến thăm cho ông Andrew Young, cựu Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc và cựu cố vấn của Tổng thống Carter, Bộ Ngoại giao Mỹ dưới thời Tổng thống Ronald Reagan vẫn không chấp thuận cho họ sang Việt Nam.
Mọi chuyện phải chờ đến năm 1985, Mỹ mới quay lại Việt Nam...
                                                                 Đại sứ Lê Văn Bàng trình quốc thư lên Tổng thống Hoa Kỳ  Bin Clinton
Phần II:Việt Nam với nước lớn hay chuyện lòng tin và lợi ích

Chúng ta phải phân biệt những cản trở mang tính kỹ thuật, và lợi ích thực sự của Mỹ ở Đông Nam Á, Đông Á - Thái Bình Dương. Điều này đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược, và các mối quan hệ cụ thể trong từng lĩnh vực. Bởi ở mỗi thời điểm những cản trở mang tính kỹ thuật lại rất khác nhau.
Tại sao ông lại cho rằng từ năm 1985 người Mỹ mới thực sự quan tâm lại tới Việt Nam?
Tình hình thế giới và khu vực từ lúc đó đã quá thay đổi.
Thứ nhất, sự đe doạ của Liên Xô không còn nữa, với việc ông Michail Gorbachev lên nắm quyền vào đầu tháng 3.1985, và tiến hành perestroika (cải tổ). Họ, một mặt, phải tập trung vào giải quyết vấn đề của chính mình, và, mặt khác, lại mở cửa với phương Tây, hoà dịu với Mỹ.
Thứ hai, cũng chính vì vậy, con bài Trung Quốc đối với người Mỹ cũng bị giảm giá trị theo. Đó là chưa nói sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc khiến họ cũng gặp phải những vấn đề của mình, và trong quan hệ với Mỹ. Đỉnh điểm là sự kiện Thiên An Môn năm 1989, khiến quan hệ Trung - Mỹ trở nên căng thẳng.
Thứ ba, yếu tố khu vực cũng có sự tác động tích cực với tiến trình Việt - Mỹ. Các nước ASEAN tuy vẫn phản đối Việt Nam về chuyện đưa quân sang Campuchia, nhưng đã có những nỗ lực muốn giảm sự đối đầu trong khu vực để chuyển sang đối thoại. Bởi năm 1985 cũng là lần đầu tiên Việt Nam đưa ra tuyên bố trước quốc tế là sẽ hoàn thành rút quân khỏi Campuchia trước năm 1990.
Chẳng hạn như sáng kiến "Jakarta Cocktail" (Tiệc rượu Jakar ta) của Ngoại trưởng Indonesia Ali Alatas giúp cho 4 phái kháng chiến Campuchia ngồi với nhau, và các nước Đông Dương và ASEAN gặp nhau không chính thức (JIM1 và JIM2)...
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, bản thân trong nội bộ Việt Nam cũng có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Đại hội Đảng đã khẳng định quyết tâm mở cửa và hội nhập của Việt Nam để thoát khỏi thế bị bao vây, cô lập.
Về đối ngoại, đây cũng là dấu mốc chính thức cho chủ trương đối thoại thay cho đối đầu - tiền đề cho quá trình bình thường hoá quan hệ, không chỉ riêng với Mỹ.
Nhưng tại sao phải mất tới 10 năm, với ba nhiệm kỳ tổng thống nữa (Reagan, Bush cha và Clinton), hai nước mới có thể chính thức hoàn tất việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao?
Cuối năm 1986, ngay trước Đại hội Đảng VI của Việt Nam, phía Mỹ có cử một đoàn do hai hai thượng nghị sĩ là Hart và Lugar dẫn đầu vào Việt Nam.  Họ vào gặp Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, nói rằng tình hình khu vực thay đổi và phía Mỹ muốn đối thoại với Việt Nam. Hai điều kiện họ đưa ra để nối lại đàm phán bình thường hoá là giải quyết vấn đề POW/MIA và Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia.
Bộ trưởng Thạch hiểu câu chuyện, hiểu người Mỹ, và ông biết Việt Nam phải hợp tác tốt trong vấn đề POW/MIA thì Mỹ mới bỏ cấm vận kinh tế, trước khi bình thường hoá quan hệ.
Ông nói với phía Mỹ rằng đây là vấn đề nhân đạo nên hai bên cùng thể hiện thiện chí với nhau, và đề xuất mở hai diễn đàn: một diễn đàn về POW/MIA, và diễn đàn kia về việc giúp đỡ những người bị tàn tật trong chiến tranh với chân tay giả, xe đẩy... Phía Mỹ thấy có thể chấp nhận được, và OK ngay.
Phải nói ông hành động rất khôn khéo, vẹn cả đôi đường.
Nhưng cho dù Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân vào tháng 9.1989, đến tận năm 1991, phía Mỹ vẫn chưa tin. Họ bảo rằng biết đâu Việt Nam rút ở đầu này, nhưng lại vào Campuchia ở đầu khác.
Còn đối với vấn đề POW/MIA, trong Quốc hội Mỹ có nhiều nghị sĩ, nổi bật nhất là Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hoà Bob Smith, của bang New Hampshire, luôn dùng luận điểm này để chống bình thường hoá với Việt Nam. Ông Bob Smith này luôn nói là Việt Nam vẫn còn giam giữ tù binh Mỹ, và điều này tác động đến lòng người ở Mỹ rất mạnh, nhất là đối với hiệp hội những gia đình có người thân mất tích trong chiến tranh và một số tổ chức cựu binh Mỹ.
Tôi còn nhớ là sang đến nhiệm kỳ của Tổng thống George H.W. Bush (cha), khoảng năm 1990-1991 gì đó, có một đoàn của Mỹ sang Việt Nam, và yêu cầu cho phép họ kiểm tra xem Việt Nam còn giam giữ tù binh Mỹ hay không. Ông trợ lý ngoại trưởng Mỹ, tôi không nhớ tên, nói: "Sau khi ăn cơm trưa ở Nhà khách Chính phủ, các ông đưa chúng tôi sang Sân bay Gia Lâm, có một trực thăng chuẩn bị sẵn ở đó. Lúc đó chúng tôi mới nói cần đi đâu."
Bộ trưởng Thạch lại quyết định ngay: Phải chấp nhận mới xây dựng được lòng tin. Lên máy bay, họ chỉ về phía Nam, đến một khu rừng ở Thanh Hoá, đến một cái trại giam tù binh thời chiến tranh, lán trại đã mục nát. Chúng tôi chỉ cho họ xem cỏ mọc dày hết cả lối đi, tức là đã lâu lắm rồi không có người qua lại, lúc đó họ mới tin.
Rồi sang thời của Tổng thống Bill Clinton, khi Việt Nam và Mỹ đã thoả thuận rằng Mỹ sẽ bỏ cấm vận vào mùa hè năm 1993, và thiết lập quan hệ ngoại giao ở mức cơ quan liên lạc, sau chuyến đi của đặc phái viên tổng thống, cựu ngoại trưởng Edmund Musky vào tháng 4 năm đó, thì bên Mỹ lại rộ lên chuyện "tài liệu Nga".

Tôi còn nhớ vào khoảng tháng 5.1993, nhóm làm phim của ABC News vào Việt Nam với mục đích xác minh lại câu chuyện đó, và yêu cầu gặp bằng được Trung tướng Trần Văn Quang. Phóng viên Jim Laurie nói với hai anh em hướng dẫn viên báo chí (thuộc Trung tâm Báo chí Nước ngoài, Bộ Ngoại giao) rằng họ vừa ghé qua Moscow trước khi đến đây, và còn giơ cho chúng tôi xem bản "tài liệu Nga" đó.
Câu chuyện đầu đuôi thế nào nhỉ, thưa ông?
Một nhân vật chống Việt Nam rất mạnh tên là Stephen Morris, làm tại Đại học John Hopkins, đã tung ra bản tài liệu đó và nói rằng ông ta đã lấy được khi qua Moscow. Theo tài liệu này, Trung tướng Trần Văn Quang đã báo cáo với Bộ Chính trị Việt Nam liên quan đến những tù binh Mỹ được gửi sang Liên Xô.
Thế là Chính phủ Mỹ liền tập trung điều tra, yêu cầu gọi Tướng Quang và những người Nga có liên quan trả lời về nghi vấn này. Trong khi đó, Đại tá tình báo Nga Kalugin lại đổ thêm dầu vào lửa, khi phát biểu rằng vấn đề này là có thật.
Vì tài liệu đó mà cần thời gian xác minh, loại bỏ hiểu lầm. Nhưng chuyến đi của ông Musky coi như thất bại. Những gì mà cả hai chính phủ kỳ vọng đã bị vô hiệu hoá.
Tôi vẫn còn nhớ, đầu năm 1993, Bộ Ngoại giao đã cử tôi đi làm đại sứ tại Liên Hợp Quốc, với tâm thế là sẽ đi Washington D.C. để thành lập cơ quan liên lạc, và bàn giao nhiệm vụ ở LHQ cho người phó của tôi là ông Ngô Quang Xuân.
Và đến tháng 7.1993, Tổng thống Clinton chỉ tiến thêm được một bước nữa trong việc tiếp tục nới lỏng cấm vận, khi quyết định cho Việt Nam tiếp cận các khoản vay của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Còn việc thiết lập cơ quan liên lạc hai bên phải chờ thêm một năm rưỡi nữa (1.1995), sau khi Tổng thống Clinton dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế gần một năm trước đó (3.2.1994).
Công việc của ông với tư cách là Trưởng phòng Liên lạc, cho tới khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt, và ông trở thành Đại biện Lâm thời?
Thì vẫn tiếp tục thúc đẩy vấn đề POW/MIA. Ngoài ra là các vấn đề nhân đạo và giải quyết những tồn đọng trong chiến tranh.
Chẳng hạn phía Mỹ đòi Việt Nam phải trả khoản tiền hơn 200 triệu USD do công dân Mỹ để lại ở Sài Gòn khi di tản vào tháng 4.1975, như nhà, ô tô, tài sản....
Chủ yếu là do họ tự kê khai và qui ra tiền thôi, nhưng đàm phán đi đàm phán lại, rút cục, chúng ta vẫn phải chấp nhận. Nhưng, đổi lại, phía Mỹ đã hứa dùng toàn bộ số tiền này để giúp Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục, và đưa vào quỹ học bổng Fulbright, mỗi năm chi đâu khoảng 6-7 triệu USD.
Món nợ của quá khứ đã trở thành khoản đầu tư cho tương lai.
Với tư cách là người tham gia từ đầu tới cuối tiến trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Mỹ, và cũng là đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Mỹ, ông nhìn nhận thế nào về tiến trình này?
Kể từ thời điểm bình thường hoá đến tận bây giờ, vị trí địa chiến lược của Việt Nam ở Đông Nam Á đã đóng vai trò quyết định trong những quyết định lớn Mỹ trong quan hệ với Việt Nam. Dù quan hệ của họ với Trung Quốc vẫn tiếp tục cải thiện, nhưng họ vẫn cần có thêm những mối quan hệ cho nặng đồng cân. Đó là lý do họ duy trì và củng quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước Đông Nam Á khác, họ vẫn chủ trương mở rộng quan hệ với chúng ta, từ ngoại giao sang thương mại, giáo dục, và cả an ninh, quốc phòng nữa.
Nói tóm lại, Mỹ luôn tính tới Việt Nam trong việc đàm phán và quan hệ với các cường quốc khác.
Tuy nhiên, có thể quyết sách dựa trên lợi ích là vậy, nhưng giải quyết các vấn đề nội bộ lại là chuyện khác. Cho nên tuy Clinton muốn xoá bỏ cấm vận, bình thường hoá, hay đạt thoả thuận thương mại song phương, ông vẫn cần những ông nghị sĩ cả hai đảng đứng đằng sau, nhất là những thượng nghị sĩ vốn là cựu binh John Kerry, hay John McCain, để hỗ trợ ông.
Chúng ta phải phân biệt những cản trở mang tính kỹ thuật và lợi ích thực sự của Mỹ ở Đông Nam Á, Đông Á - Thái Bình Dương. Điều này đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược, và các mối quan hệ cụ thể trong từng lĩnh vực. Bởi ở mỗi thời điểm những cản trở mang tính kỹ thuật lại khác nhau.
Giải mã về "Mr. America" Nguyễn Cơ Thạch
Tôi thấy ông mấy lần nhắc tới cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Ấn tượng của ông như thế nào về vai trò của ông Thạch trong tiến trình này?
Nói đến tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, về phía Việt Nam, người đầu tiên phải nhắc đến là ông Nguyễn Cơ Thạch, đặc biệt là từ khi ông trở thành bộ trưởng ngoại giao. Đồng thời là Uỷ viên BCT và Phó Thủ tướng Chính phủ, ông có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. Ông là người luôn chủ động tìm kiếm các kênh khác nhau để thúc đẩy tiến trình này.
Tôi còn nhớ giai đoạn 1987-1988, hai bên vẫn gặp nhau để bàn thảo những công việc liên quan tới POW/MIA, nhưng phía Mỹ yêu cầu không đưa vấn đề bỏ cấm vận vào chương trình làm việc. Họ không được phép của chính phủ Mỹ.
Ông Thạch bảo phải tìm thêm một kênh nữa để có thể nói chuyện về bỏ cấm vận và bình thường hoá. Thế là vào mùa thu năm 1988, ông đã viết thư cho ông William Sullivan, người đồng cấp với ông trong đàm phán Hiệp định Hoà bình Paris và ông vẫn giữ được quan hệ kể từ đó.
Ông Sullivan có sang London gặp Đại sứ Việt Nam tại đó. Rồi từ London, ông Thạch mời ông Sullivan sang đây, và họ có thể nói chuyện nhiều thứ, chứ không bị bó buộc như đối với trường hợp của đặc phái viên của Tổng thống, Đại tướng John Vessey.
Hội đồng Thương mại Việt - Mỹ, một tổ chức có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy vấn đề POW/MIA, cũng như xoá bỏ cấm vận với Việt Nam, tất nhiên theo một cách riêng, đã ra đời theo sáng kiến của họ. Chị Ginny Foote là thư ký của ông Sullivan, còn tôi cũng ở vai thư ký của ông Thạch nên ngồi những cuộc như thế tôi biết rất rõ.
Ông là người khá gần gũi với ông Thạch trong công việc. Nét tính cách nào của ông Thạch khiến ông thấy ấn tượng nhất?
Hài hước. Ông nói nhiều câu mà người Mỹ ngỡ ngàng.
Chẳng hạn, có một đoàn Mỹ sang đây năm 1988, khi làm việc, thấy câu chuyện hơi căng thẳng, tự nhiên ông hỏi: Các ông có thuốc nổ không? Chúng tôi muốn nhập.
Họ hỏi lại nhập làm gì, và giải thích là việc đó không hề dễ dàng theo qui định của hệ thống pháp luật của Mỹ.
Ông bảo: Tôi muốn làm nổ tung mấy nhà máy in tiền của chúng tôi đi. Lạm phát cao quá!
Cả Mỹ, cả ta cười ồ lên. Không khí trao đổi tự nhiên dịu hẳn đi.
Khi ông Nguyễn Cơ Thạch nghỉ năm 1992, tôi nghe nói có nhà báo Mỹ nhận xét ông là "the right man of the wrong time" (con người đúng ở thời điểm sai). Ông nghĩ sao về nhận xét đó?
(Cười). Tôi nghĩ đã là lãnh đạo thì không thể đi ngang bằng, hoặc đi sau, so với những người còn lại trong đoàn người. Bởi như vậy thì làm sao thực hiện vai trò dẫn dắt được. Nhưng, ngược lại, cũng đừng đi nhanh quá mà anh bị mất hút đối với đám đông.
Ý ông là ông Thạch đi quá nhanh?
Cũng khó nói là ông Thạch đi quá nhanh, hay những người còn lại đi quá chậm. Chỉ có điều, nói một cách hình tượng, trên thực tế, khoảng cách giữa ông và mọi người là 10 mét, trong khi, trong sương mù, người ta chỉ nhìn rõ được 5 mét thôi.
Trong quan hệ với một nước khác, họ cứ đồn ông Thạch là Mr. America, nhưng hoàn toàn không phải. Ông là một người rất Việt Nam, nhưng sáng suốt biết chọn bước đi đúng đắn, có lợi cho mở cửa và đổi mới kinh tế đất nước.
Xin cảm ơn ông.
Nguồn: TuầnViệt Namnet (2 số ra ngày 6 và 7/12/2011)  


Tìm kiếm Blog này