Hiển thị các bài đăng có nhãn Thế trận Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thế trận Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

Lại xuất hiện cơ hội lớn đối với VN (*)

(*) Tiêu đề nguyên bản là "Cơ hội lớn nhất cho tất cả tổ quốc và đảng Cộng sản  Việt Nam" của tác giả Trần Quí Cao đăng tại blog Basam ngày 5/6/2015

Thời cơ trước mắt cực kì thuận lợi cho nước Việt Nam thoát Chậm Tiến, thoát Độc Tài Toàn Trị, và song song với đó là thoát Trung.
Thời cơ trước mắt cũng cực kì thuận lợi cho đảng CSVN thoát ra khỏi chính mình, tự xác lập là một chính đảng luôn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ năm 1945 tới nay, và thức thời có công lớn trong việc đưa Việt Nam vào một giai đoạn mới: Dân Chủ, Phát Triển bền vững và Tự Chủ.

Thứ Hai, 13 tháng 4, 2015

Chuyến đi "lợi bất cập hại"

Duyệt đội danh dự tại Bắc Kinh  

Chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc đã bước sang ngày cuối cùng, tuy chưa hoàn toàn kết thúc nhưng phần nội dung đã được truyền thông của cả hai nước loan báo đủ để những ai quan tâm cũng có thể bình luận mà không lo bị cho là "thiếu thông tin". Theo sự mô tả của truyền thông chính thống của cả hai nước, thì chuyến thăm có vẻ như là thành công lớn nhất kể từ khi Trung Quốc công khai tiến hành các hoạt động bành trướng trên toàn bộ Biển Đông kể cả đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như dọc bờ biển của Việt Nam. Thậm chí có người tin rằng sau chuyến thăm tình hình sẽ tốt đẹp hơn như thể "hết mưa trời lại nắng" vậy ! Đối với người Việt Nam vốn hay lạc quan, thì cảm giác này cũng là dễ hiểu, vì  nếu không, làm sao họ có thể tồn tại dưới cái bóng của gã khổng lồ trong hàng ngàn năm qua (!?) Thôi thì, nếu khi nào còn có thể, hãy sống bằng hy vọng. Nhưng cũng đừng quên những phen vỡ mộng lắp đi lắp lại chỉ trong vòng 1/2 thế kỷ qua. Và cũng đừng quên bờ cõi giang sơn Việt Nam dù  phải dịch chuyển về phía Nam vẫn chưa thể tránh khỏi nguy cơ bị thôn tính.

Thứ Hai, 5 tháng 1, 2015

Quan hệ Việt-Trung: Đã hết thời triều cống

Đối với người Việt và cả người TQ, các năm chẵn thường được coi trọng hơn hơn năm lẻ. Vậy năm 2015 là con số đẹp đáng được chọn để điểm lại mối quan hệ giữa hai nước láng giềng bất đắc dĩ này, đặc biệt trong thời kỳ 70 năm qua và thời gian sắp tới.

Xâm lấn và bành trướng lãnh thổ là bản chất của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán 

Có thể nói quan hệ Việt-Trung là một trong những cặp quan hệ chứa đựng đầy đủ đặc điểm của loại hình quan hệ giữa các quốc gia dân tộc từ thời thượng cổ đến thời hiện đại, đặc biệt là quá trình đấu tranh sinh tồn của một nước nhỏ trước họa bành trướng của một nước lớn cận kề. Điều này được minh chứng rõ ràng trong cả quá trình lịch sử lâu đời từ thời tiền sử đến ngày nay. Có số liệu tổng kết rằng kể từ khi thoát khỏi ánh đô hộ 1.000 năm Bắc thuộc Việt Nam đã hứng chịu không dưới 12 cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn từ Trung Quốc (chưa kể cuộc chiến tranh biên giới 1979). Lịch sử cho thấy ngay từ thời nhà Hạ bên Trung Quốc tương đương thời vua truyền thuyết Kinh Dương Vương của Việt Nam tức quảng cuối Thiên niên kỷ thứ 3 trước CN, Hán tộc từ phía Bắc đã lấn chiếm lãnh địa của Việt tộc ở phía Nam sông Dương Tử. Đến thời các triều đại An Dương Vương, Triệu Việt Vương (Triệu Đà) và Hai Bà Trưng kéo dài quảng 300 năm trước và sau CN tuy được coi là thời kỳ quật khởi của người Việt nhưng cuối cùng vẫn bị Hán tộc dồn đẩy về phía Nam. Tiếp đến là thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc mà qua đó tộc Lạc Việt không chỉ bị dồn đẩy đến tận cùng phía Nam mà còn đứng trước nguy cơ bị đồng hóa hoàn toàn như nhiều tộc Việt anh em của họ bên Trung Quốc. 


May thay nguy cơ này đã được cứu vãn qua hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của người Việt bản địa kết hợp với những người gốc gác Bách Việt hội tụ về đây để chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất và thiết lập lại nền độc lập tự chủ với bản sắc Việt tộc của mình. Nền độc lập này được khẳng định vào năm 1077 với bài hịch nổi tiếng của Vua Lý Thường Kiệt: 

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư, 
Như Hà nghịch lỗ lai xâm phạm, 
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư. 

Cũng hoàn toàn không phải vô cớ mà Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh năm 1792 đã rắp tâm lấy lại vùng lãnh thổ Lưỡng Quảng nhưng không may lâm bạo bệnh qua đời chưa thực hiện được. Điều này cho thấy ý thức về nguồn cội dân tộc và lãnh thổ vẫn luôn còn đó trong tâm thức người Việt. 

Bàn về sự thật lịch sử quan hệ Hán-Việt, một học giả Trung Quốc tên là  Le Oa Đằng mới đây có bài viết cho rằng Việt Nam là hậu duệ, là đại diện của người Bách Việt. Trong bài viết, ông cũng cho rằng người Việt Nam là chủ nhân đích thực của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (chứ không phải như tài liệu tuyên truyền của Bắc Kinh rêu rao). 

Thực tế cũng cho thấy hoàn toàn không đơn giản như một số người vẫn còn ảo tưởng rằng Trung Quốc dưới chế độ cộng sản và XHCN không còn bản chất xâm lược bành trướng! Nói cách khác, không có một phép màu nhiệm nào có thể làm thay đổi bản chất và cục diện quan hệ giữa hai cựu thù mà trong đó nước lớn Trung Quốc luôn lăm le xâm lược và thôn tính nước nhỏ Việt Nam. Mặt khác, thực tế lịch sử cũng cho thấy, dù chưa thể thôn tính và đồng hóa được Việt Nam, nhưng các thế lực bành trướng Đại Hán đã và đang khá thành công trong thủ đoạn kìm hãm Việt Nam trong vòng cương tỏa của chúng để dễ bề tiếp tục lấn chiếm và bành trướng lãnh thổ về phía Nam.

Chuyển hướng bành trướng từ đất liền ra biển 

Trong bối cảnh thế giới ngày nay, mọi quốc gia đều tồn tại trong sự tùy thuộc lẫn nhau một cách cao độ khiến cho việc mang quân xâm lược một cách công khai trắng trợn đối với một quốc gia khác không phải là giải pháp khôn ngoan nếu không nói là không thể thành công. Điều này giới lãnh đạo Bắc Kinh chắc chắn đã nhận ra, nhưng đồng thời cũng nhận thấy rằng niềm tự hào là Vương quốc ở "giữa thiên hạ" (Middle Kingdom) nay lại ở vào thế bị kẹt giữa thiên hạ, và do đó nung nấu tham vọng mở rộng không gian phát triển ra phía đại dương là hướng mà ông cha họ chưa bao giờ nghĩ tới. Nếu như các triều đại Vương Triều xưa chỉ biết mở rộng bờ cõi bằng cách lấn chiếm đất đai của các nước kế cận, thì giới lãnh đạo Trung Quốc ngày nay đã biết coi trong vai trò của biển và đại dương. Và đó là nguyên nhân khiến họ thay đổi hướng xâm lược bành trướng bằng cách lấn chiếm biển đảo của các nước ven  Biển Hoa Đông và Biển Đông, xa hơn sẽ là Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, không loại trừ Nam Cực. 
Sơ đồ về phạm vi đòi hỏi chủ quyền của các nước tại Biển Đông 
Tất nhiên để thực hiện hướng bành trướng phi truyền thống này, Bắc Kinh phải tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng theo phương châm "ẩn mình chờ thời" của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình đề ra, bởi lẽ các vùng biển này đều đã có chủ; chỉ còn cách làm sao để "biến không thành có". Và Bắc Kinh chỉ còn cách là xâm chiếm biển đảo của các nước khác cũng như một số vùng biển thuộc hải phận quốc tế.

Để thực hiện âm mưu đó, suốt 70 năm nay giới lãnh đạo Bắc Kinh đã và đang kiên trì bằng mọi thủ đoạn, khi thì giả vờ hữu hảo, khi thì trở mặt gây sức ép quân sự, chính trị, kinh tế đối với Việt Nam. Thời điểm họ lựa chọn đánh chiếm Hoàng Sa đầu năm 1974, rồi đánh chiếm một số bãi đá ở Trường Sa đầu 1988 cho thấy chiến thuật đó. Vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào khoan thăm dò dầu khí sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tháng 6/2014 đồng thời với chiến dịch "đảo hóa" tại một số bãi ngầm giữa Biển Đông đều nhằm phục vụ ý đồ độc chiếm Biển Đông, trong đó mục tiêu chính là thiết lập những "cột mốc chủ quyền" mới của Trung Quốc trên Biển Đông. 

Thay đổi chiến thuật và hướng bành trướng là việc của Trung Quốc. Nhưng có điều trớ trêu là, sự thay đổi hướng bành trướng ra biển như nói trên lại một lần nữa đặt Việt Nam vào thế đối đầu trực diện với Trung Quốc, đơn giản vì Việt Nam là nước có bờ biển chạy dài từ Bắc xuống Nam và cũng là chủ nhân của 2 quần đảo ngoài khơi Biển Đông án ngữ trên con đường bành trướng của "Vương Triều mới". Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc không chỉ đe dọa Việt Nam mà còn đe dọa lợi ích của các quốc gia ven Biển Đông khác cũng như toàn bộ khu vực ASEAN và thế giới, đặc biệt các cường quốc hàng hải  như Nhật, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Anh, Pháp, v.v...  Sự độc chiếm của Trung Quốc đối với 2 quần đảo này đồng nghĩa với việc quốc tế  mất quyền đi lại tự do trên Biển Đông và điều này là không thể chấp nhận được. Nói cách khác, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam nhưng chúng đều nằm trong vùng biển quốc tế và do đó vai trò bảo vệ còn phụ thuộc vào quốc tế . Chính vì lý do này, để tránh sức ép quốc tế, Bắc Kinh luôn một mực khước từ việc "quốc tế hóa" đối với mọi tranh chấp ở Biển Đông đồng thời ra sức chia rẽ nội bộ ASEAN để cô lập Việt Nam.   

Với cục diện đã hoàn toàn thay đổi trên thế giới ngày nay khi mà mọi hành động gây hấn của một quốc gia đều có thể nhanh chóng biết đến trên quy mô toàn cầu. Thế giới đã lập ra nhiều tổ chức quốc tế với rất nhiều thiết chế luật lệ để điều phối các mối quan hệ giữa các quốc gia. Mặc khác, với trình độ giao thông liên lạc vô cùng nhanh nhạy, với các mối quan hệ trao đổi kinh tế, thương mại, khoa học-công nghệ, kể cả trong lĩnh vực quốc phòng vô cùng đa dạng, đa năng ngày nay thì quảng cách không còn là vấn đề lớn trong khái niệm lựa chọn đối tác, bạn-thù và đồng minh. Trong hoàn cảnh và điều kiện mới của thế giới ngày nay, một nước lớn nếu có ý đồ khống chế hay "bắt nạt" một nước nhỏ quả là không dễ dàng và đơn giản như trong quá khứ. Bài học của Mỹ tại Trung Đông và Nga tại Ucraina hiện nay cho thấy điều này. Và Trung Quốc sẽ không phải là ngoại lệ. 

Trung Quốc đã thay đổi Việt Nam không thay đổi mới là chuyện lạ

Như đã nói trên đây, chính sách bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc vẫn còn đó nhưng hướng và biện pháp đã có những thay đổi cơ bản. Xưa kia Trung Quốc chỉ bành trướng trên bộ, nay bành trướng ra hướng biển và đại dương. Trước đây mỗi khi các triều đại Trung Quốc tiến đánh Việt Nam, dù thắng hay thua, thế giới có thể không biết hoặc biết khi đã quá muộn. Vào thời đó hầu như chưa có khái niệm về sự can thiệp giúp đỡ từ quốc tế.  Trong hoàn cảnh đó Việt Nam không có cách nào khác là phải tự mình tìm cách thích ứng để tồn tại bên cạnh Vương Triều. Đó là lý do của sự ra đời sách lược mềm dẻo khôn khéo và thái độ nín nhịn "tránh voi chẳng xấu mặt nào", kể cả việc phải "triều cống" bằng lễ vật đối với kẻ thù ngay cả sau khi đã đánh bại chúng. Và sách lược đó đã cho thấy hiệu quả trong suốt hàng trăm năm trước đây và đã trở thành nếp nghĩ và là ưu tiên lựa chọn đối với  người Việt Nam trong quan hệ với nước lớn Trung Quốc.  


Tiếp đến trong 70 năm qua sau khi thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp người Việt Nam lại sa vào một cái bẩy mới của Trung Quốc-đó là khái niệm "tương đồng về ý thức hệ" giữa hai nước cùng theo chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Về mặt này, người Việt Nam tỏ ra trung thành hơn cả người Trung Quốc, biểu hiện ở chỗ là, trong khi Trung Quốc liên tục "đổi màu" bằng những bước đi dài với phương châm "mèo trắng mèo đen miễn bắt được chuột" thì người Việt Nam chỉ dừng lại ở khái niệm "đổi mới" chung chung một cách dè dặt. Sau bao phen bị "ông anh" cùng ý thức hệ phản bội bằng những cuộc chiến tranh nóng cùng với các thủ đoạn phá hoại ngầm về kinh tế-chính trị-xã hội khiến Việt Nam phải điêu đứng, nhưng người Việt Nam xem ra vẫn còn hy vọng vào những lời hứa hão huyền "4 tốt", "16 chữ vàng", "lấy đại cục làm trọng", "anh em tốt, láng giềng tốt" v.v...

Lẽ ra khi Trung Quốc thay đổi phương thức và địa bàn bành trướng thì Việt Nam cũng phải thay đổi phương thức đấu tranh, trước hết không việc gì phải quá lo sợ về một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn từ Trung Quốc; điều đáng lo hơn là âm mưu của Bắc Kinh một mặt kìm giữ VN trong vòng cương tỏa của họ, một mặt chia rẽ nội bộ Việt Nam và chia rẽ Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Đó là thủ đoạn mà Bắc Kinh ráo riết áp dụng từ thời đảng Cộng sản lên nắm quyền và đã khá thành công trong những năm gần đây khi họ nhiều lần "trùm chăn đánh Việt Nam" mà thế giới không biết hoặc chỉ biết khi sự đã rồi. Đó là trường hợp cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, rồi chiến tranh biên giới phía Bắc đến các cuộc chiến tranh chớp nhoáng ở Hoàng Sa, Trường Sa, tất cả đều diễn ra tay đôi giữa hai nước cộng sản anh em. Sự kiện giàn khoan HD 981 lúc đầu cũng đã bị ém nhẹm; nếu không được công luận lên tiếng qua mạng internet thì chắc sự im lặng đó còn kéo dài hơn và hậu quả có thể đã xấu hơn. E rằng việc Bắc Kinh đang ráo riết xây dựng căn cứ quân sự tại các bãi đá giữa Biển Đông đang có nguy cơ rơi vào yên lặng và trở thành "sự đã rồi " như các đợt lấn chiếm trước đó. Cho đến nay Trung Quốc chưa trả lại và cũng không có ý định trả lại những phần lãnh thổ biển đảo đã lấn chiếm của Việt Nam.        

Phải chăng bài học đối với Việt Nam ngày nay là không nên ngần ngại hoặc nín nhịn quá mức mà phải thể hiện thái độ công khai dứt khoát đối với mọi vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, đặc biệt tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, theo tinh thần luật pháp quốc tế bất luận Bắc Kinh có bằng lòng hay không. Đồng thời đường lối "sẵn sàng làm bạn với tất cả" cần được thể hiện một cách cụ thể qua việc tăng cường quan hệ với các nước thứ ba như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, v.v... coi đó là nhân tố cần thiết để ứng phó với Trung Quốc trong những tình huống xấu nhất. Vẫn biết quan hệ với Trung Quốc là quan trọng và cần được ưu tiên giữ gìn, nhưng để tránh chiến tranh với Trung Quốc cách tốt nhất là tiến hành các biện pháp răn đe phòng ngừa từ trước, chứ không phải chỉ có nín nhịn cho đến khi nó xảy ra. Trung Quốc không bao giờ từ bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông. Và Việt Nam chỉ có thể bảo vệ mình với sự hỗ trợ của tập thể ASEAN và cộng đồng quốc tế. Ngược lại, ASEAN và quốc tế cần Việt Nam để bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông. Đó có lẽ là cách tiếp cận thực tế và hiệu quả nhất đối với Việt Nam trong bối cảnh tương quan lực lượng của thế giới ngày nay. 
  

Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2014

Hãy gọi đích danh kẻ xâm lược

Mấy ngày nay cả nước lại có dịp ôn lại khí thế hào hùng của thời chiến tranh chống Pháp, Mỹ. Những thước phim, vở kịch và rất nhiều bài ca "đi cùng năm tháng" lại được đem ra trình diễn mặc dù đến nay hầu hết những người anh hùng năm xưa đã lần lượt về cõi vĩnh hằng trong khi các mối quan hệ Việt-Pháp, Việt-Mỹ đã chuyển sang trang hữu nghị hợp tác hoàn toàn mới. 

Vẫn biết dù sao việc nhắc lại quá khứ là điều cần thiết. Nhưng liệu có công bằng không khi chỉ nhắc lại hai kẻ thù Pháp, Mỹ mà không nhắc gì đến một kẻ xâm lược đã và đang trực tiếp đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước mà vì nó hàng vạn anh hùng liệt sĩ và thường dân đã hy sinh đến nay vẫn là "vô danh"? Và điều quan trọng hơn là, cách thể hiện thiên lệch đó chắc chắn đã và đang gây ra những sự hiểu nhầm không cần thiết đối với thế giới và cả đối với kẻ thù, đồng thời khoét sâu thêm nỗi bức xúc trong dân chúng, đặc biệt những gia đình có con em đã hy sinh trong sự nghiệp chống quân bành trướng xâm lược Trung Quốc. Liệu điều này có lợi cho ai?

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2014

TQ không phải "thế lực thù địch" thì là ai đây?


Như tin tức đã loan báo, từ ngày 16-18/10 Đại tướng Phùng Quang Thanh đã dẫn đầu đoàn quân sự cấp cao gồm 13 tướng lĩnh sang thăm chính thức TQ. Trả lời báo chí bên lề phiên khai mạc kỳ họp QH sáng nay Bộ trưởng Phùng Quang Thanh cho biết mục đích chuyến đi là nhằm "tăng cường thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa quân đội của hai nước cũng như Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước". Giải đáp mối lo ngại của nhiều chuyên gia trước việc TQ xây dựng căn cứ quân sự và đe dọa an ninh hàng hải trong khu vực, Bộ trưởng cho rằng "đó là lo ngại của các nhà nghiên cứu", nhưng theo ông "điều quan trọng nhất là hai bên đã thỏa thuận phải hợp tác theo tinh thần hữu nghị của lãnh đạo 2 Đảng, Nhà nước, giữ gìn môi trường ổn định, hòa bình và kiểm soát hoạt động của lực lượng vũ trang của hai nước trên biển, không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực và để xảy ra xung đột vũ trang ở trên biển". Khi có người hỏi phía họ có hứa gì không, ông Thanh nói "Hứa thì không hứa, nhưng nói chung là...". 

Bất cứ ai theo dõi tình hình quan hệ Việt-Trung đều cảm nhận chuyến đi nặng về hình thức hơn là thực chất. Đã nhiều lần hai đảng, nhà nước, quân đội hai nước thỏa thuận như vậy rồi, nhưng đều bị phá vỡ do tham vọng độc chiếm Biển Đông của TQ.  Thôi thì, dù sao cũng có thể hiểu được chuyến đi theo tinh thần truyền thống mềm dẻo, khôn khéo của dân tộc Việt Nam ngàn đời nay vẫn thế. Tuy nhiên, về thực chất chuyến đi cho thấy bước thụt lùi cơ bản về thế và lực của VN trước đối phương.

Một là, trong nội dung làm việc, phía VN đưa ra một số đề nghị không quan trọng mang tính chất đơn phương theo kiểu "xin cho" như mở lại cửa khẩu du lịch, thực hiện nhân đạo với ngư dân, v.v... nhưng không phản đối việc TQ mở rộng sân bay quân sự tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đồng thời ráo riết đẩy nhanh tiến độ nhằm biến các đảo và bãi ngầm họ vừa chiếm được tại quần đảo Trường Sa thành những căn cứ quân sự. Trong bối cảnh này thì lời đề nghị "giữ nguyên hiện trạng" trên biển đồng nghĩa với sự khuất phục của Hà Nội đối với Bắc Kinh.       

Hai là, việc người đứng đầu quân đội VN kêu gọi hai bên (VN và TQ) không để các thế lực thù địch lợi dụng tình hình Biển Đông... đã phát đi một thông điệp nhầm lẫn nguy hiểm. Cụm từ "thế lực thù địch" nếu nói trong nước hoặc tại một diễn đàn quốc tế ai muốn hiểu sao cũng được, nhưng với Bắc Kinh mà nói vậy thì chỉ có cách hiểu Mỹ hoặc nước a, b, c nào đó là thù địch, còn TQ không phải là thù địch. Nó cho thấy não trạng mơ hồ về địch/ta giống hệt câu chuyện truyền thuyết Mỵ Châu-Trọng Thủy của ngàn năm trước. Điều nguy hiểm là, từ nay quân và dân ta không biết chĩa súng vào đâu để bảo vệ chủ quyền biển đảo. 

Thật đáng buồn thay cho dân tộc vừa mất 1/2 thế  kỷ liên tục hy sinh phấn đấu vì độc lập và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia mà nay vẫn chưa ra khỏi vòng u mê của thời truyền thuyết. Buồn cho đất nước mãi luẩn quẩn trong vòng kim cô "ý thức hệ". Những tưởng bài học từ vụ Giàn khoan 981 đã là bài học cuối cùng để chú gà con tránh xa cái hang ổ của con cáo già. Nhưng rốt cuộc đó cũng chỉ là một bài học nữa trong chuỗi bài học mà Đặng Tiểu Bình muốn dạy Việt Nam mà thôi./.      

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

Quan hệ Việt-Mỹ: Những tín hiệu khả quan


TNS John McCain và TNS Sheldon Whitehouse
trả lời phỏng vấn báo chí tai HN tối 8/8
Chỉ ít ngày sau chuyến thăm Mỹ của Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị và vài ngày sau chuyến thăm VN của thượng nghị sĩ Bob Corker, thành viên cao cấp Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ là chuyến thăm của Đoàn TNS Mỹ John McCain và TNS Sheldon Whitehouse cùng các thành viên đến VN (từ 7-10/8). Được biết, có tin  Phó Thủ tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sẽ thăm Mỹ nay mai, và nếu đúng vậy thì đây là thời kỳ "dầy đặc" nhất của các cuộc thăm viếng qua lại giữa các quan chức cao cấp hai nước. Đáng chú ý là hiện tượng này xảy ra ngay sau vụ giàn khoan Haiyang 981.   

Nếu chuyến thăm Mỹ của ông Phạm Quang Nghị diễn ra một cách vội vã với những dấu hiệu không bình thường, và do đó đã gây tranh cãi không chỉ trong dư luận VN mà cả quốc tế, thì chuyến thăm VN của đoàn TNS Mỹ lại được đón nhận như một "làn gió mát" bất chợt trong bầu không khí mùa  Hè nóng bức của VN và vùng Đông  Nam Á. Có một bình luận vui rằng, chuyến thăm của Đoàn TNS Mỹ đã "cứu ông Phạm Quang Nghị một bàn thua trông thấy", vì việc ông Nghị đi Mỹ không khác nào hành động của một hậu vệ xông lên đá ở vị trí tiền đạo nhằm tìm một bàn thắng (!). 

Tuy nhiên, bóng đá hoàn toàn khác với chính trị; dù sao chuyến đi của ông Nghị vẫn là một bộ phận cấu thành của toàn bộ chuỗi các sự kiện đang góp phần "nắn dòng chảy" của mối quan hệ Việt-Mỹ. Và đây là câu chuyện dài rất phức tạp mà người viết bài này chưa có đủ dữ liệu để bàn luận một cách thực sự có chiều sâu, nên chỉ xin mạo muội đề cập đôi điều trên bề mặt của nó mà thôi.  

Theo những tin tức có được đến giờ phút này, đặc biệt qua cuộc trả lời phỏng vấn của hai TNS Mỹ tối qua có thể thấy toát lên mấy điểm sau: 

Đây là lần đầu tiên phía Mỹ tỏ rõ quyết tâm "dấn tới" và kết thúc quá trình bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt vốn đã kéo dài gần 20 năm. Điều này thể hiện ở thành phần Đoàn gồm 2 TNS John McCain và TNS Sheldon Whitehouse là những nhân vật kỳ cựu và chủ chốt có đủ tư cách để đại diện cho 2 đảng trong QH và cho nước Mỹ nói chung trong vấn đề quan hệ Mỹ -Việt. 

Ngay từ đầu chuyến thăm TNS John McCain đã tuyên bố: “Đã đến lúc Mỹ có thể nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN" và "sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự, an ninh với VN". 

Cách đặt vấn đề của TNS  John McCain cho thấy sự  chủ động trên cơ sở có tính toán cẩn thận của phía Mỹ khi ông này đưa ra đánh giá: “Hai thập kỷ qua, Mỹ và VN đã xây dựng mối quan hệ vững mạnh dựa trên những mục tiêu chung, mối quan tâm và lợi ích chung. Hy vọng của chúng tôi là năm tới hai nước sẽ xây dựng được quan hệ đối tác chiến lược dựa trên những giá trị chung. Điều đó làm chúng ta có mối quan hệ mật thiết lâu bền”.

Trong một trả lời khác, sau khi nói “Chúng tôi sẵn sàng gia tăng trợ giúp về an ninh, giúp VN đảm bảo hợp thức chủ quyền của mình, bảo đảm bảo vệ các quyền của VN”, John McCain cũng nhấn mạnh: “Tất cả không nên xảy ra cùng lúc” hàm ý còn tùy thuộc các yếu tố chủ quan và khách quan từ hai nước và từ  quốc tế, trong đó chắc là có vấn đề nhân quyền. 

Bên cạnh chủ đề tháo bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương, Đoàn tỏ ra rất lạc quan về khả năng VN gia nhập TPP. Có lẽ với mục đích tăng cường quan hệ được đề cao nên phía khách buộc phải hạ thấp các yêu cầu về nhân quyền vốn hay được phía Mỹ đề cao trước đây. Biểu hiện là hầu như không thấy có chương trình hoạt động thuần túy nào về nhân quyền được yêu cầu trong chương trình nghị sự. Khi có người hỏi liệu Mỹ có đặt điều kiện gì về nhân quyền đối với VN không ông John McCain nói "VN đã có những tiến bộ"..., và do đó "nhân quyền không phải là vấn đề gây trở ngại". 

Xét trong khuôn khổ luật pháp Mỹ, thì hai TNS John McCain và TNS TNS Sheldon Whitehouse có đủ tư cách và thẩm quyền để thay mặt QH và Chính quyền Mỹ phát biểu về chính sách của quốc gia và không ai nghi ngờ gì về tính khả thi của chúng. Và hình như để khẳng định điều này TNS Sheldon Whitehouse (Đảng DC) bộc bạch tại cuộc phỏng vấn: "Trong Quốc hội Mỹ, nếu có những bất đồng trong các vấn đề cũng là bình thường. Tôi không loại trừ có những bất đồng trong việc nới lỏng hay dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Ông John McCain và tôi đại diện cho 2 đảng khác nhau. Nhưng tôi tin rằng chúng tôi có thể làm việc để tạo ra hành động trong Quốc hội Mỹ, từ đó gửi tín hiệu khuyến khích nhánh hành pháp...".

Như vậy tín hiệu đèn xanh đã bật lên từ phía Mỹ. Vậy câu hỏi đặt ra là, điều gì thúc đẩy nước Mỹ "dấn bước" một cách cụ thể và rõ ràng như vậy?

Đã có vài  ý kiến "đoán non đoán già" rằng trong chuyến thăm Mỹ vừa qua chắc ông Phạm Quang Nghị đã có cam kết cụ thể nào đó với Mỹ về nhân quyền(?). Đó không phải là một suy đoán tồi. Nhưng không nên loại trừ một một nhân tố khác, đó là Mỹ không muốn  mất cơ hội tốt sau vụ TQ hạ đặt giàn khoan trong vùng biển của VN để đi cái bước đi mà họ rất cần trong chiến lược "xoay trục" của họ. Cách lập luận này xem ra phù hợp với đặc điểm thực dụng của người Mỹ hơn chăng(?) Điều này được thể hiện, dù thoáng qua, trong một câu trả lời phỏng vấn của TNS John McCain rằng“Chúng ta cần có một nghị trình tham vọng hơn, nhất là trong thời điểm đang có những diễn biến lo ngại trên Biển Đông. Đây là lúc Mỹ và VN cần có bước nhảy vọt mạnh mẽ trong thời gian tới”. Ông cũng không quên "hứa" rằng "Mỹ sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự, gia tăng chuyến thăm tàu quân sự đến VN theo mức độ VN chấp nhận được". Đồng thời ông cũng có ý làm yên lòng TQ hoặc nước nào có thể lo lắng bằng câu: "Mỹ không tìm kiếm mục đích, không đặt ra yêu cầu thuê mướn căn cứ quân sự ở VN".

Ngoài ra, có một ý tứ có lẽ không không kém phần quan trọng. Nó cũng chứa đựng trong câu nói của TNS John MacCain khi trả lời phỏng vấn báo chí tối 8/8: "Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là thiết lập những quan hệ liên minh, các nước liên kết nhau để bảo vệ nền pháp quyền quốc tế. Điều này mang lại lợi ích cho tất cả các nước. Để khi nói đến bảo vệ nền pháp quyền thì chúng ta không cần phải nghĩ đến việc chọn ai và theo ai", và "Nếu tin vào tầm quan trọng của nền pháp quyền thì chúng ta phải ủng hộ điều đó và cùng tham gia, cùng toàn thế giới thực hiện điều đó sẽ không phải đắn đo, lựa chọn, cho dù khi nỗ lực bảo vệ pháp quyền chúng ta phải hy sinh một số tham vọng". 

Phải chăng khi nói vậy, ông McCain đã nêu lên quan điểm của Mỹ về nguyên tắc bảo vệ pháp quyền và tính nguyên minh bạch trong quan hệ quốc tế, trong đó có quan hệ Việt-Mỹ. Nói  vậy cũng là để nhằm tránh sự hiểu nhầm của bên ngoài đồng thời chỉ ra sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ giữa Mỹ và Việt Nam với tư cách hai "đối tác chiến lược" trong tương lai ? 

Như vậy, có thể nói tuy chuyến thăm chưa kết thúc, nhưng Đoàn Nghị sĩ Mỹ đã hoàn thành sứ mệnh phát ra một thông điệp hoàn toàn rõ ràng đối với VN: Nước Mỹ đã sẵn sàng để kết thúc quá trình bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt và hai nước có thể bắt đầu một trang mới. Vấn đề còn lại là phía Việt Nam sẽ hưởng ứng như thế nào.  Những ai  bảo rằng cơ hội đối với VN đã hết thì có lẽ họ đã nhầm. Nhưng đối với những ai còn nghi ngờ liệu VN có sẵn sàng để đón nhận cơ hội hay không thì  xem ra họ vẫn còn có lý./. 

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Khi chiếc nỏ thần lại rơi vào tay giặc

Quan hệ Việt-Trung như một chiếc hàn thử biểu nóng lạnh thất thường, đặc biệt trong thời kỳ "hậu chiến tranh lạnh" nó nóng lên với nhịp độ trung bình 10 năm một cuộc chiến. 

Giàn khoan Haiyang 981: mở đầu của cuộc chiến bằng những mốc chủ quyền di động 
Sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Haiyang 981 sâu trong hải phận Việt Nam ngày 2/5 rồi đột ngột rút giàn khoan ngày 16/7 là một trong những ví dụ mới nhất. Xung quanh việc rút giàn khoan có nhiều điều còn bàn cãi, nhưng có một điều đã rõ là Bắc Kinh hoàn toàn giành quyền chủ động về thời gian và cách thức; có ý kiến còn cho rằng toàn bộ quá trình hạ đặt đến việc rút giàn khoan là cuộc chơi do Bắc Kinh dàn dựng.  

Với tình trạng quan hệ thất thường như thế, phần thua thiệt luôn thuộc về Việt Nam. Tuy nhiên có điều lạ là, mặc dù người VN (cả giới lãnh đạo và dân chúng) tuy không phải một lần mà nhiều lần đã trải qua tâm trạng tràn trề căm hờn uất ức, nhưng rồi lại "quên" ngay sau mỗi cuộc. Này nhé, cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974 dù ít được biết đến nhưng sau này biết được ai ai cũng phẫn uất. Rồi cuộc chiến biên giới Tây-Nam tiếp nối cuộc chiến tranh tranh biên giới phía Bắc kéo dài gần 20 năm trực tiếp ảnh hưởng đến mọi gia đình Việt từ Nam chí Bắc. Cuộc thảm sát Gạc Ma năm 1988  (gọi là "thảm sát" vì cuộc chiến đó lính TQ thỏa sức bắn giết những người lính VN đã được lệnh không nổ súng). Mới đây nhất là vụ giàn khoan Haiyang 981 thực chất là cuộc xâm lược kiểu mới bằng giàn khoan và tàu thuyền như những "cột mốc chủ quyền di động". Tất cả vẫn còn đó như một cuốn phim chiến tranh dài vô tận.

Chiến tranh biên giới 1979 đưa quan hệ Trung-Việt về số 0
Suốt 70 năm qua VN đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống các kẻ thù xâm lược khác nhau. Tất cả đều là chiến tranh xâm lược, nhưng rõ ràng VN đã đối xử hoàn toàn khác đối với các cuộc chiến tranh giữa VN với các nước gọi là tư bản đế quốc so với các cuộc chiến tranh giữa VN với  TQ xã hội chủ nghĩa. Dưới đây là một số biểu hiện như vậy.

Một là, Pháp, Nhật, Mỹ đều không lấy được của VN một tấc đất nào trong khi chỉ TQ thông qua các cuộc chiến tranh dù lớn nhỏ, lâu mau đã cướp của VN những phần lãnh thổ hoặc biển đảo có vị trí chiến lược quan trọng. Đó là bằng cuộc hải chiến Hoàng Sa (1974) TQ đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa; bằng cuộc chiến biên giới phía Bắc năm 1979 (thực chất kéo dài nhiều năm sau) TQ chiếm hàng loạt cứ điểm dọc biên giới với diện tích tổng cộng ước bằng diện tích tỉnh Thái Bình (theo đánh giá của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ VN tại TQ) kéo theo Vịnh Bắc Bộ cũng đã được chia lại một cách có lợi hơn cho phía TQ so với Hiệp ước Pháp-Thanh; bằng cuộc chiến chớp nhoáng tại quần đảo Trường Sa năm 1988, TQ đã chiếm bãi Gạc Ma và 6 đá hoặc đảo chìm làm chỗ đứng chân đầu tiên của họ giữa biển Đông cách xa đảo Hải Nam hơn 1.000 dặm; và bằng vụ giàn khoan Haiyang 891 TQ đã và đang thử nghiệm kiểu chiến tranh xâm lược mới mà hậu quả chưa thể lường trước được.   

Hai là, trong bất cứ cuộc chiến tranh nào với Pháp, Nhật, Mỹ lãnh đạo VN đều gọi đích danh kẻ thù và huy động toàn dân kết hợp "3 dòng thác cách mạng" thế giới. Những cuộc chiến tranh đó bao giờ cũng đóng vai trò chất kết dính của khối đoàn kết dân tộc. Nhưng trong các cuộc chiến chống TQ xâm lược lãnh đạo VN tránh nêu đích danh TQ, thậm chí chỉ coi đó là "xích mích giữa láng giềng, anh em..." (Phát biểu của Đại tướng Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangi-La (31/ 5/2014), và mỗi khi dư luận quốc tế ủng hộ mạnh lên thì VN thụt lại. Mặt khác, trong khi năm nào VN cũng kỷ niệm rất rầm rộ chiến thắng xâm lược Pháp, Mỹ nhưng lại bưng bít, hạn chế đưa tin về các cuộc chiến tranh với TQ, thậm chí không cho tìm hài cốt và truy tặng danh hiệu đối với các chiến binh tử trận. 

Ba là, trong hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ lãnh đạo Việt Nam đề cao vai trò nhân dân, coi chiến tranh là sự nghiệp và lẽ sống mà các thế hệ người Việt phải xả thân vì chủ quyền và độc lập dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tuyên bố : "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lại độc lập cho dân tộc". Đó thực sự đã là những cuộc chiến tranh toàn dân toàn diện đúng với nghĩa của nó. Nhưng trong các cuộc chiến chống TQ xâm lược thì khác, đặc biệt gần đây còn xuất hiện cách lập luận cho rằng "chiến tranh là hy sinh mất mát không cần thiết", và do đó "bằng bất cứ giá nào cũng phải tránh chiến tranh". Thực chất đây là một lối đạo đức giả trái với truyền thống luân thường đạo lý của dân tộc. Chính lối ứng xử không bình thường này đã và đang xói mòn khối đoàn kết của dân tộc. 

Bốn là, trong các thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vùng giải phóng tuy chỉ với nền kinh tế tự cấp tự túc thô sơ, chính quyền cách mạng vẫn chủ trương tẩy chay hàng ngoại hóa (tức là hàng từ vùng bị địch chiếm) và chủ trương này được nhân dân nhiệt thành hưởng ứng. Nhưng ngày nay với một nền kinh tế hoàn chỉnh của một quốc gia hơn 90 triệu dân, thì chính quyền lại tỏ ra lúng túng lo sợ bị TQ cắt quan hệ.  Ngay trong những ngày tàu thuyền TQ trắng trợn truy sát quân dân ta trên biển thì cán bộ và doanh nhân vẫn thản nhiên tiếp tục quan hệ bình thường với đối tác TQ.  

Năm là, nếu tâm lý kỳ thị "địch - ta" sau các cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ đã kéo dài hàng chục năm ảnh hưởng nặng nề đến tiến trình bình thường hóa quan hệ, thì chỉ một ngày sau khi TQ rút giàn khoan 981 mọi thứ dường như đã lập tức trở lại bình thường với hàng loạt chương trình tuyên truyền trên TV, báo, đài được dàn dựng công phu đều bị hủy bỏ. Tất cả diễn ra như một màn kịch vậy! Theo đó, người dân trở lại hân hoan với niềm tự hào vốn có: VN lại chiến thắng rồi! Hình như người Việt thích từ "chiến thắng" trong chiến tranh hơn "thắng lợi" trong xây dựng kinh tế thì phải? Cứ chiến thắng là được, không cần thắng lợi nên cứ để nền kinh tế lệ thuộc vào TQ cũng không sao.

Hội nghị Thành Đô với những thỏa hiệp đến nay chưa được bạch hóa
Những sự khác biệt nêu trên đây nói lên điều gì nếu không phải một đường lối và chủ trương chính sách có sự phân biệt rõ ràng giữa kẻ thù xâm lược tư bản và kẻ thù xâm lược cộng sản?  Đây chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, là cái gốc để hiểu mọi vấn đề liên quan đến quan hệ Trung-Việt, đặc biệt trong những tình huống có chiến sự xảy ra . Nó giúp ta dễ dàng nhận ra lý do tại sao VN lại mau chóng "quên" (hoặc giả vờ quên) các cuộc chiến với TQ đến vậy. Đồng thời cũng dễ dàng nhận thấy sự nguy hiểm khôn lường của đường lối và chính sách "không giống ai" đó của VN. Một bộ phận những người lãnh đạo đất nước ngày nay vẫn say sưa tự hào về đường lối được coi là "mềm dẻo khôn khéo"đó bất chấp những hậu quả đã được kiểm chứng với lần lượt những phần lãnh thổ và biển đảo bị đưa ra làm "vật tế thần" nhưng không thể ngăn cản bước chân xâm lược của kẻ thù truyền kiếp đang hồi sung mãn quyết chí thực hiện tham vọng bành trướng bá chủ biển Đông. Liệu VN có thể tồn tại độc lập và phát triển "đặng sánh vai với các cường quốc năm châu" như người sáng lập Hồ Chí Minh đã từng ước vọng được không? Câu hỏi này thực sự đã được trả lời KHÔNG sau quá trình 1/2 thế kỷ "đồng sàng dị mộng" giữa hai nhà nước cộng sản VN và TQ rồi còn gì (?). Làm sao đất nước này có thể phát triển lành mạnh trong điều kiện "bên miệng hố chiến tranh" do kẻ thù sắp đặt?

Nhân đây lại phải nhắc lại một sự thật. Đó là không phải chỉ bây giờ mà đã nhiều lần trong quá khứ người Việt đã nhận thấy nhu cầu "thoát Trung", gần đây nhất là thời Phan Bội Châu - Phan Chu Trinh hồi đầu thế kỷ thứ 20. Rất tiếc rằng đến thời đại Hồ Chí Minh và các thế hệ kế tiếp khái niệm thoát Trung đã bị lu mờ nếu không nói đã bị hoán đổi bằng khái niệm quan hệ "môi với răng", "vừa là đồng chí, vừa là anh em"... Trong thời kỳ này cái tâm thế yếu hèn từ trong sâu thẳm của một bộ phận người Việt lại trỗi dậy và được vỗ về bởi thứ quan niệm hoàn toàn mới có tên gọi "ý thức hệ cộng sản và XHCN". Nếu tinh thần tự cường dân tộc là bí quyết của chiếc nỏ thần (phỏng theo truyền thuyết An Dương Vương) thì trong thời kỳ này nó đã được trao cho nhà cầm quyền Bắc Kinh. Theo quy luật mưa dầm thấm lâu, không chỉ các thế hệ lãnh đạo kế tiếp nhau mà cả dân chúng đã quen với quan niệm dựa dẫm, lệ thuộc vào nước lớn láng giềng đến mức không thấy không có nhu cầu thoát, thậm chí đánh đồng khái niệm đó là đối đầu, là chống Trung. Và do đó người ta lo sợ một nỗi lo bóng gió vu vơ như ta thấy hiện nay. Vì lo sợ nên lúc nào cũng phải rào trước đoán sau, chưa khảo đã xưng "VN không liên minh với ai" và giả bộ coi cuộc xâm lăng từ TQ "chỉ là xích mích giữa láng giềng, bè bạn", v.v..., và tâm trạng lúc nào cũng lo sợ bị ông anh nổi giận.      

Tất cả mọi khái niệm đều có thể thay đổi với những ai thực sự muốn thay đổi cho một tương lai tốt đẹp hơn. Nhưng sẽ là vô nghĩa chừng nào người Việt Nam (cả chính giới và dân chúng) không thể thống nhất cùng nhau rũ bỏ cái "ý thức hệ" chết tiệt đó!  Nếu giới tinh hoa (elit) của dân tộc (thường bao gồm các thành phần chủ chốt trong giới lãnh đạo) có bổn phận là đầu tàu  dẫn dắt quốc gia, thì có thể nói giới tinh hoa của VN đã đánh mất vai trò đó từ khá lâu rồi. Trên thực tế họ đã và đang dẫn dắt tộc tộc theo một hướng sai lệch vì bản thân họ sa đà vào những quan niệm sai lệch và trở nên xơ cứng, bảo thủ đến mức hết phương cứu chữa. Về phương diện học thuyết, họ tỏ ra "bảo hoàng hơn vua" khi mà Liên Xô đã sụp đổ và không còn cái gọi là "hệ thống XHCN". Lại càng sai lầm hơn khi họ tự nguyện "đôn" ông anh hai với đầy thành tích bất hảo lên vai trò lãnh đạo và vô hình trung đã trao cho giới cầm quyền Trung Nam Hải chiếc gậy thần vô cùng lợi hại để tiếp tục thực hiện mưu đồ nô dịch VN cùng các nước Đông Dương.       

Trên đây là những sự thật mà người VN nào cũng nhận thấy. Tuy nhiên, vẫn cần nhắc lại rằng Việt Nam dù luôn tự hào đánh bại mọi kẻ thù xâm lược nhưng đến nay vẫn chưa chiến thắng được bản thân mình để thoát khỏi cái ý thức hệ viễn vông "vừa là đồng chí vừa là anh em" chết tiệt ấy. Phải chăng đây chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân khiến đất nước không chỉ luôn rơi vào thế khó xử trước TQ đồng thời bị kìm chế không thể tận dụng mọi lợi thế trong quan hệ với các bên thứ ba. Do đó, cần hiểu đúng đắn rằng "thoát Trung" là thoát khỏi tâm thế phụ thuộc vì những điều viễn vông để trở lại tư thế độc lập tự chủ tự cường cần phải có của một quốc gia độc lập có chủ quyền. Thoát Trung là xuất phát từ nhu cầu phát triển tương lai của VN chứ hoàn toàn không có nghĩa là chống  lại hay đối đầu với TQ.  
VN không thể tồn tại và phát triển với thế đơn thương độc trước một cường quốc láng giềng bành trướng  
Không có gì sai để Việt Nam (cả chính quyền và người dân) hy vọng vào một sự thay đổi đường lối hữu nghị láng giềng đúng đắn từ phía nhà cầm quyền Bắc Kinh. Nhưng hy vọng nhiều hơn thực tế là ảo vọng nguy hiểm. Nên chăng, hy vọng là một chuyện, nhưng chủ động xúc tiến mọi biện pháp cần thiết để giành thế chủ động còn quan trọng hơn nhiều. Những  ai còn tiếp tục hy vọng hão huyền vào sự thay đổi hoặc sự nương nhẹ nào đó từ Trung Nam Hải sẽ không cần đợi lâu để lại thất vọng. Bởi lẽ, với chế độ chính trị TQ chưa thay đổi thì bản chất tham vọng bành trướng bá quyền đầy bệnh hoạn trong đó có mưu đồ độc chiếm biển Đông của họ sẽ tiếp tục chi phối quan hệ Trung-Việt. Sau giàn khoan 981, sẽ đến những giàn khoan khác, trước mắt là những đàn tàu cá TQ đang tung hoành ngang dọc khắp biển Đông sớm muộn cũng xung đột với tàu thuyền của VN. Bắc Kinh đâu có thiếu gì cớ để đánh VN khi  họ cần? Hãy đợi đấy! 
    
Ghi chú: Mấy tấm ảnh trong bài được lấy từ nguồn internet, lời ghi chú dưới ảnh là của tác giả bài viết.

Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014

Thêm một điều đáng suy ngẫm


Theo TTXVN, hôm nay Người phát ngôn NG Việt Nam Lê Hải Bình vừa tuyên bố:"Việt Nam hoan nghênh việc Nghị quyết 412 của Thượng viện Hoa Kỳ yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương-981 và các lực lượng hộ tống khỏi vị trí hiện tại, không có các hoạt động trái với Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va trên biển (COLREGs); lên án các hành động cưỡng bức, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thay đổi hiện trạng hay gây bất ổn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương". 

Nếu đọc kỹ Nghị quyết (tại đây) sẽ thấy phần nói về biển Đông, đặc việt về vụ giàn khoan Haiyang 981 chỉ là một phần nhỏ bên cạnh nội dung chính nói về biển Hoa Đông và toàn bộ vùng Châu Á-TBD.  

Tuy vậy, cũng đủ để người Việt Nam vô cùng phấn khởi rồi. Gặp và nói chuyện với các cụ hưu trí và cả giới trung niên, thanh niên tôi thấy đa số có chung một tình cảm phấn khởi như thể đó là nghị quyết của QH nước mình vậy! Nó khiến tôi chợt nhớ có ai đó từng nhận xét "người Việt rất dễ thỏa mãn". 

Đúng vậy, nghị quyết của Thượng viện Mỹ dường như đã xua đi nỗi bức xúc mà mọi người vừa trải qua trước việc QH của mình không ra nghị quyết về biển Đông sau kỳ họp mùa Hè năm nay. Mà sao không phấn khởi được khi có người khác nói giùm nguyện vọng cho mình? 


Nhưng phấn chấn được một hồi, mọi người lại phải nghĩ, chẳng lẽ VN cứ đi ăn xin cả đời, không chỉ viện trợ kinh tế, quân sự mà cả chính trị ngoại giao - thứ mà không mất tiền mua chỉ cần lòng dũng cảm và kiên định? Tại sao trước một vấn đề hoàn toàn nằm trong tầm tay của QH nước nhà, cũng chẳng hề có  nhân tố bạo lực quân sự hay gây hấn gì để mà lo đối phương kiếm cớ gây chiến tranh nóng phá hỏng mất cái sách lược mềm dẻo khôn khéo cổ truyền của dân tộc và đúng ra chỉ cần một động tác ra nghị quyết đáp ứng nguyện vọng đại đa số cử tri và quần chúng nhân nói chung chắc chắn QH đã có thể tạo ra những tác động tích cực đối với cả "hai mặt trận đối nội và đối ngoại" như ta vẫn thường nói. Vậy mà người ta đã không làm?

Mà chuyện này đâu thiếu thời gian và thực tiễn để căn cứ vào đó mà ra quyết định. Nó đã được thảo luận đi thảo luận lại trong suốt kỳ họp QH cũng là thời kỳ leo thang căng thẳng nhất trong quá trình gây hấn xâm lược của TQ. Nhưng hôm 23/6 dư luận đã bắt đầu thất vọng hoàn toàn khi Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu đánh tiếng "sẽ không có nghị quyết riêng về Biển Đông"... vì "ngay từ đầu kỳ họp Quốc hội đã bàn bạc rất kỹ về tình hình Biển Đông và sau đó có thông báo tuyên bố rõ lập trường chính nghĩa của Việt Nam và nói rõ quan điểm xử lý vấn đề Biển Đông". 

Và y như rằng điều gì đến đã đến Quốc hội sau nhiều ngày bàn cãi đã quyết định không đưa ra nghị quyết. Theo giải thích của Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng tại lễ bế mạc và được sự "lĩnh hội" của đại đa số thành viên QH thì đơn giản là "không cần nghị quyết"! Không cần có nghĩa là thừa. Thế thôi! Chẳng lẽ các vị không biết việc thảo luận chỉ mang tính chất nội bộ, còn việc ra nghị quyết QH mới có ý nghĩa công khai chính thức, và thảo luận càng nhiều mà vẫn không ra được nghị quyết càng chứng tỏ có vấn đề? Thật buồn cho một cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân và đất nước. Lại phải một lần nữa tự an ủi: "Nước mình nó thế!"

Thứ Hai, 23 tháng 6, 2014

Nên phát đơn kiện trước khi Bắc Kinh rút giàn khoan


biển Đông, Việt Nam, UNCLOS, Trung Quốc, Phillipines
Dư luận trong và ngoài nước đang rộ lên về việc "kiện Trung Quốc". Tuy nhiên, cách hiểu thì  khác nhau khá nhiều, chủ yếu tập trung vào các khía cạnh như  kiện về cái gì, kiện ra tòa án nào, thời điểm nào, vận dụng lý lẽ ra sao, và khả năng thắng thua...

Thật ra về phần mình Việt Nam đã tính đến việc kiện TQ ra tòa án quốc tế từ nhiều năm rồi chứ không phải bây giờ mới tính. Tuy nhiên VN chưa thật sự coi trọng mặt trận pháp lý này, lý do chủ yếu vì sợ chọc giận TQ gây căng thẳng quan hệ lâu dài, và điều này đã được ám chỉ bởi một vài vị lãnh đạo cấp cao mới đây rằng "kiện khác nào bát nước đổ đi". Đồng thời cũng có sự lo ngại khả năng bị thua kiện chủ yếu vì những lý do kỹ thuật khó lường trước. 

Sự băn khoăn trên đây không phải là hoàn toàn vô lý trong bối cảnh mối quan hệ bị ràng buộc và bất bình đẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhất là khi TQ là nước lớn nhiều tiền và lắm mưu mô chước quỷ. Tuy nhiên đó chỉ là một mặt của toàn bộ vấn đề. Vấn đề còn phụ thuộc vào cách đánh giá về tương quan lực lượng, đâu là thế mạnh, thế yếu của mỗi bên . Với những gì nhà cầm quyền Bắc Kinh đang thể hiện cho thấy họ đã quyết tâm hy sinh "quan hệ hữu nghị anh em..." để đạt mục đích lấn chiếm thêm biển đảo của VN nhằm thực hiện chiến lược bá chủ Biển Đông. Nếu vậy thì không có lý gì VN còn  luyến tiếc, mơ hồ với khả năng giành được sự nhân nhượng nào đó của họ trong đàm phán riêng tư (song phương). Hơn nữa, nếu đã xác định kiện là một biện pháp đấu tranh hòa bình thì không có lý  gì phải lo sợ bị TQ coi đó là cái cớ để tấn công quân sự. Về khả năng thắng thua khi đệ đơn kiện thì còn phụ thuộc khá nhiều vào việc lựa chọn nội dung, cách thức và thời điểm để đưa đơn kiện. Nhưng điều này VN đã có đủ điều kiện và thời gian để út kinh nghiệm từ các nước, nhất là của Philipin. 
Mọi cơ hội đều có tính thời gian. Nếu VN tiếp tục do dự sẽ trượt mất thời cơ không bao giờ có lại được; thế hệ này không được thì thế hệ sau càng khó.       
Vị trí giàn khoan Haiyang 981 cho thấy mối liên quan của nó với quần đảo Hoàng Sa
Dưới đây xin bàn cụ thể hơn về 2 vấn đề. 
Nội dung kiện: Nếu kiện để đòi  lại toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào lúc này là điều ít tính khả thi, vì đó là vấn đề rất phức tạp không thể giải quyết  một sớm một chiều. VN nên chọn vấn đề đang diễn ra, đó là tập trung kiện đòi TQ rút giàn khoan Haiyang 981 cùng toàn bộ tàu thuyền họ ra khỏi lãnh hải VN. Lợi thế của VN nằm ở sự sai lầm của TQ. Việc TQ ngang nhiên đơn phương cho hạ đặt giàn khoan lại còn sử dụng hàng trăm tàu thuyền, kể cả  của  Hải quân và không quân gây nhiều thiệt hại về tài sản và tính mạng đối với Việt Nam không chỉ vi phạm Công ước Luật Biển 1982 mà còn vi phạm hàng loạt các thỏa thuận và luật lệ quốc tế như môi trường, quyền mưu sinh của con người, tự do lưu thông hàng hải v.v... Hành động đó đang đe dọa an toàn hàng hải tại Biển Đông và đe dọa hòa bình khu vực và thế giới. Ngoài Philipine vốn đã bị TQ xâm hại nhiều lần, giờ đến lượt các nước khác cũng bắt đầu  lo ngại bị TQ áp đặt "đường lưỡi bò". 

Nếu phía TQ chấp nhận vụ kiện thì đây sẽ là dịp tốt để VN kết hợp đề cập vấn đề chủ quyền Hoàng Sa. Nhiều khả năng tòa án sẽ không phán quyết gì về chủ quyền đối với Hoàng Sa thông qua vụ kiện này, nhưng đó là một dịp để ghi nhận sự phản kháng của VN đối với sự chiếm đóng trái phép của TQ. Điều tòa án có thể phán xét (nếu có) sẽ là buộc TQ rút giàn khoan và lực lượng trả về nguyên  trạng trước ngày 1/5/2014. Bằng cách này VN mới có thể tránh được nguy cơ mất thêm (trên thực tế- de facto) vùng lãnh hải phía Nam quần đảo Hoàng Sa đồng thời ngăn chặn các bước lấn chiếm tiếp theo của TQ.

Nếu TQ không chấp nhận tham gia vụ kiện, thì VN cũng không thiệt hại gì. Đây sẽ là dịp để VN nêu rõ lập trường và tranh thủ dư luận quốc tế.  Nếu tòa án ra phán quyết không có sự tham gia của TQ hoặc TQ không chịu thi hành án, thì vẫn có lợi cho VN.  


Thời điểm kiện: Nếu để TQ rút giàn khoan này đi rồi thì coi như mất tang chứng vật chứng. Kịch bản này rất dễ diễn ra nhất là khi gần đây TQ đã triển khai thêm 3 giàn khoan khác gần đó nhưng không nằm trong hải phận VN. Đây có thể  là thủ đoạn xập xí xập ngầu giữa cái đúng cái sai nhằm đánh lạc hướng dư luận. Không loại trừ khả năng họ bất ngờ tuyên bố út giàn khoan nhưng vẫn để lực lượng chốt giữa các lỗ đã khoan và coi đó là "mốc chủ quyền" của TQ. Bằng cách đó TQ sẽ tháo hơi làm xẹp quả bóng dư luận đang căng phồng và vấn đề sẽ phức tạp khó khăn hơn nhiều đối với VN nếu muốn đưa ra kiện. 

Do đó, nếu xác định sẽ kiện, thì VN nên khởi kiện  càng sớm càng tốt khi giàn khoạn 981 của TQ còn ở hiện trường. Đừng nghĩ rằng TQ sẽ vẫn còn tiếp tục có hành động xâm phạm lấn chiếm đối với VN..thì kiện lúc nào chẳng được(!). Nhiều khả năng TQ sẽ xâm phạm ở những địa điểm khác ở phía Nam, nơi không có mối liên hệ gì với tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và vì thế VN sẽ không có cơ hội để kết hợp nêu vấn đề Hoàng Sa. Nên nhớ TQ đã chiếm đóng trên thực tế toàn bộ quần đảo Hoàng Sa được 40 năm rồi;  nếu VN không có biện pháp chiến tranh cũng không có biện pháp pháp lý để tỏ rõ ý chí muốn đòi lại chủ quyền  thì theo thông lệ quốc tế (Luật La Mã) sau 50 năm sẽ không còn mấy lý lẽ để đòi chủ quyền.   


Mục đích của việc kiện TQ vào lúc này không chỉ để buộc TQ rút giàn khoan 981 mà còn  rút toàn bộ tàu thuyền khỏi vùng đó, đồng thời có ít nhiều tác dụng đề phòng không cho TQ dễ dàng dấn sâu thêm vào âm mưu lấn chiếm biển đảo nói chung. 


Thật sự mà nói, nếu chỉ nhằm đích TQ rút giàn khoan 981 thì sớm muộn họ cũng phải rút thôi, chậm nhất là đến 15/8 hoặc cùng lắm là đến thời gian sóng to  gió chướng tại vùng biển  này. Nhưng việc rút đó có ý nghĩa hoàn toàn khác. Lúc đó TQ sẽ tự tuyên bố "hoàn thành nhiệm vụ" và không loại trừ  khả năng họ cắm chốt tại mấy lỗ vừa khoan bằng cách tiếp tục duy trì lực lượng tàu thuyền bảo vệ không cho VN tiếp cận. Kịch bản này sẽ còn khó hơn cho ta nhiều! Lúc đó có kiện thì cũng đã quá muộn.      

Tóm lại, trước mắt VN nên kiện đòi TQ rút giàn khoan cùng toàn bộ lực lượng ra khỏi  lãnh hải của VN trả lại nguyên trạng trước ngày 1/5/2014. Việc chọn đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế hay UNCLOS tùy thuộc vào mục đích kiện. Tất nhiên trong quá trình xét xử, vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa dù muốn hay không sẽ được đề cập, và bằng cách đó Việt Nam sẽ có cơ hội để trình bày lý lẽ của mình. Trong trường hợp TQ không đồng ý tham gia vụ kiện thì ít nhất việc khởi kiện của VN cũng góp phần làm sáng tỏ lập trường chính nghĩa của mình trước công luận quốc tế, dù sao  vẫn có lợi hơn là không kiện./.

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Gà ơi đừng lại chui vào hang cáo nhé!


Tính đến nay đã một tháng rưỡi kể từ khi TQ hạ đặt giàn khoan Haiyang 981 mà họ gọi là "biên giới di động" tại một tọa độ chỉ cách bờ biển Việt Nam 120 dặm tức là xâm phạm sâu 80 dặm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Bất chấp sự phản kháng của Việt Nam và quốc tế, TQ vẫn tiếp tục ngang nhiên sử dụng hàng trăm tàu thuyền, máy bay, kể cả của hải quân và không quân đàn áp các lực lượng chấp pháp và dân chài của Việt Nam. Tuy chưa gọi là chiến tranh nhưng chúng đã và đang gây ra những thiệt hại nặng nề về tài sản và tính mạng không khác gì một cuộc chiến tranh. Thực chất đây là một đợt lấn chiếm biển đảo nữa kể từ sau sự kiện đầu năm 1988 khi quân TQ đã giết hại gần trăm sinh mạng người VN để chiếm một vài cứ điểm tại quần đảo Trường Sa, trong đó có bãi Gạc Ma nơi hiện nay chúng đang hối hả tạo dựng một căn cứ khổng lồ án ngữ giữa Biển Đông và không xa eo Malaca.  
  
Ai cũng biết VN đang phải chống trả TQ với một tương quan lực lượng không cân xứng. Tuy nhiên sự ủng hộ của quốc tế đang có đà tăng lên khá rõ rệt và đã có những bàn tay chìa ra từ hai cường quốc là Mỹ và Nhật. Ngoài những lời tuyên bố chính thức gọi đích danh và yêu cầu TQ rút giàn khoan, Mỹ còn ngỏ lời mời Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh thăm Mỹ và Nhật tuyên bố sẵn sàng hỗ trợ tàu bè, phương tiện... Sự ủng hộ của ASEAN tuy chưa được như mong đợi nhưng đang chuyển biến một cách cơ bản. Đó là những dấu hiệu rất đáng khích lệ trong bối cảnh Hà Nội đã nhiều lần yêu cầu Bắc Kinh gặp cấp cao để đàm phán nhưng đều bị khước từ.  

Tuy nhiên, nhìn vào cách thức ứng đối mà VN đang áp dụng cho thấy chưa có gì khác so với cách thức mấy chục năm qua, đó là vẫn coi trong quan hệ với TQ hơn các bên đối tác như Mỹ, Nhật. Có lẽ tư duy đối ngoại theo "ý thức hệ" vẫn còn đó như một rào cản thì phải(?). VN không bao giờ chủ trương sử dụng biện pháp chiến tranh đối với TQ , nhưng kể cả biện pháp đưa ra kiện TQ cũng bị coi là "bát nước đổ đi". Trên thực tế VN vẫn rất do dự trong việc kiện TQ kể cả khi không còn biện pháp nào khác khi gần đây tàu kiểm ngư và cảnh sát biển VN thậm chí bị đẩy ra ngày càng xa hơn nơi đặt giàn khoan một cách bất lực trong khi TQ còn "tố ngược" VN trước LHQ. Liệu điều gì sẽ xảy ra khi giàn khoan 981 hoàn tất kế hoạch cắm "mốc chủ quyền" và TQ tuyên bố rút giàn khoan để xì ngòi nổ nhưng vẫn duy trì lực lượng bảo vệ mốc chủ quyền? Lúc giàn khoan còn đứng đó như một tang chứng vật chứng thì VN không dám kiện, sau này kiện cái gì? 

Một dấu hiệu khác cũng đáng để suy ngẫm, đó là cách tư duy về chiến tranh và hòa bình của VN dường như đang có sự thay đổi ngược chiều khi gần đây nổi lên cách lập luận rằng đất nước này đã hy sinh đau khổ quá nhiều vì chiến tranh... do đó cần phải tránh chiến tranh bằng bất cứ giá nào. Quan niệm này thấp thoáng đâu đó không chỉ trong các "nhóm lợi ích mới" mà cả trong quân đội và lan sang một bộ phận dân chúng.  Có người thậm chí viện dẫn sự chênh lệch về so sánh lực lượng giữa VN và TQ để kết luận không nên chống lại TQ. Vậy xin hỏi tại sao trong quá khứ giới lãnh đạo đất nước đã từng kêu gọi toàn dân chấp nhận hy sinh để đánh bại kẻ thù xâm lược dù đó là Mỹ - siêu cường số một! sao bây giờ lại sợ  một kẻ xâm lược TQ chỉ là siêu cường số hai lại có rất nhiều yếu điểm?  Chẳng lẽ siêu cường đế quốc khác siêu cường XHCN? Suy cho cùng, đó chỉ là một thứ đạo đức giả nguy hiểm của những kẻ đang còn sống nhưng lợi dụng danh nghĩa của hàng triệu người đã hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc. Vẫn biết tránh chiến tranh là cần thiết, nhưng không thể bằng cái giá của độc lập tự do. Mềm dẻo, khôn khéo có nhiều cách thể hiện, không việc gì phải chọn cách phô bày sự bạc nhược, thiếu khí phách khi gọi kẻ thù là bạn, coi hành động kẻ cướp là xích mích giữa anh em hàng xóm

Có lẽ một thay đổi có thể nhận thấy đó là việc báo đài đã chuyển từ cách gọi "tàu lạ" "nước lạ" sang đích danh TQ. Nhưng đồng thời cũng cho thấy một sự lúng túng khi ngày nào cũng phát đi những bài tường thuật giống nhau: Tàu TQ to hơn, đông hơn, mở bạt che súng, phun vòi rồng, đuổi ép... khiến tàu VN tuy bé nhỏ ít ỏi..., nhưng được cái chạy luồn lách rất tài ...nhờ thế mà chỉ một số bị hư hại phải về cảng đại tu..Hu Hu! 
Mấy hôm rày người VN đang chờ một thượng cấp từ Bắc Kinh sang. Quan trọng đấy, dẫu không cấp cao nhất, nhì, ba...cũng là cấp cao mà! Nhưng hồi hộp nhất là không biết các cụ nhà ta sẽ ăn nói thế nào trong dịp này. Thôi thì chỉ còn cách mong  sao các cụ theo đúng câu ngạn ngữ "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng...DÂN" là được! Mong vậy là vì, thời gian qua hình như các cụ chưa chuẩn sẵn sàng thì phải (?) Cụ thì ngậm tăm, cụ thì nói nhiệu gọi kẻ thù là bạn, coi kẻ cướp là hàng xóm anh em láng giềng.... Được một vài cụ nói lời hợp lòng dân thì bị "phê bình nội bộ". Thật chẳng hiểu ra làm sao! Họ quả không bằng một góc của Cụ Hồ nếu nhớ lại hồi năm 1946 cụ đi Pháp ký thỏa ước để nhằm tống khứ quân tàu ô đề phòng hậu họa... thì bị dân thắc mắc, Cụ Hồ đã lên tiếng "Hồ Chí Minh không bán nước"...thế là dân yên lòng ngay. Giờ làm gì có chuyện này. Dân kêu oan khắp nơi nơi, giới trí thức tuy không khiến vẫn rần rần góp ý kiến rằng đây là cơ hội để thoát Trung giành lấy quyền độc lập tự chủ thật sự cho đất nước cùng rất nhiều hiến kế của nhân sĩ trong và ngoài nước. Nhưng có bao giờ được vị lãnh đạo nào đứng ra trả lời cho ra ngô ra khoai đâu!

Nếu còn có thể hy vọng thì xin hy vọng lần này con gà VN sẽ không lại một lần nữa chui vào hang con cáo TQ./.  

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2014

Lại do dự?

Giàn khoan Haiyang 981- "lãnh thổ di động" của TQ
Những ai theo dõi diễn biến tình hình vụ giàn khoan Haiyang981 và không khí tranh luận suốt tháng nay đều không tránh khỏi cảm giác thất vọng khi nghe người đứng đầu QĐNDVN phát biểu tại Hội nghị Sangri-la mới đây. Từ sự im lặng khó hiểu của người đứng đầu Đảng đến bài phát biểu mạnh mẽ rõ ràng của người đứng đầu Chính phủ và bây giờ là lời phát biểu "ôn hòa" đến mức nhạt nhòa của người đứng đầu Quân đội(*) là những cung bậc trầm bổng đầy xúc cảm đối với hàng triệu người Việt Nam trong và ngoài nước,cảm nhận chung nhất là khó hiểu Việt Nam đang đi theo hướng nào. 

Tìm kiếm Blog này