Hình ảnh chỉ có tính minh họa |
Đến nay dù chưa có số liệu chính thức, nhưng ước lượng quảng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt. Mức độ vay mượn này là qúa cao so với bình thường, và có lẽ vì thế nên một số người ngộ nhận là có thứ "ngôn ngữ Hán-Việt" (Tham khảo thêm tại đây http://trankinhnghi.blogspot.no/2012/03/co-khong-ngon-ngu-han-viet-sino.html).
Sự vay mượn giữa các ngôn ngữ là lẽ đương nhiên và cần thiết để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên nếu vay mượn quá mức và không có sự chọn lọc ắt sẽ dẫn đến tình trạng "nợ nần", thậm chí là phá sản và lệ thuộc. Sự vay mượn của tiếng Việt đối với tiếng Hán (nay là tiếng Trung) đã diễn ra trong hàng ngàn năm nay. Quá trình đó có đoạn ngắt quảng bởi thời kỳ gần trăm năm Pháp thuộc mà trong đó đã diễn ra sự thay thế có thể nói là hiếm thấy giữa chữ Nôm (tượng hình) và chữ Quốc ngữ (tượng thanh) là 2 loại chữ viết cơ bản của nhân loại. Điều này vừa là lợi thế nhưng cũng là bất lợi đối với tiếng Việt. Đó là bên cạnh sự phong phú mà tiếng Việt tiếp thu từ hai thứ ngôn ngữ lớn của thế giới còn dẫn tới tình trạng pha tạp quá sức hấp thụ của nó. Đó là lý do gây ra những ảnh hưởng xấu đối với cái gọi là "sự trong sáng" của tiếng Việt như ta thấy ngày nay. Hầu hết người Việt ngày nay nói và viết bằng những từ ngữ Hán-Việt mà không thực sự hiểu về chúng, người nghe hoặc đọc cũng không hiểu, nhưng hai bên vẫn gật gù khen hay...(!). Có rất nhiều văn bản nhà nước không rõ ngữ nghĩa, không chỉ đối với dân thường mà cả đối với quan chức và giới "có học", thậm chí nhiều trường hợp bản thân người soạn thảo văn bản cũng không hiểu hết ý nghĩa của từ ngữ mà họ sử dụng. Đó là nguyên nhân tại sao các văn bản nhà nước, kể cả văn bản pháp lý, thường rất "dài dòng văn tự" mà vẫn phải đính kèm các phụ lục giải thích. (Bài viết tại đường link này cho thấy một phần lý do tại sao như vậy http://bookhunterclub.com/nhung-tu-dung-sai-trong-ngon-ngu-tieng-viet/ ) Có thể tác giả quá khắc khe khi "bắt lỗi" chăng(?), nhưng dù sao cũng cho thấy một phần thực trạng đáng báo động đối với tiếng Việt hiện đại.
Tình trạng pha tạp với tiếng Anh hoặc tiếng Pháp là một chuyện, nhưng sự pha tạp với tiếng Trung là một vấn nạn. Xin nêu ra đây một ví dụ, đó là việc người Việt sử dụng tên nước "Trung Quốc" theo nghĩa "nước ở giữa thiên hạ" trong khi thế giới gọi nước này với cái tên của một sản vật làm cho nó nổi tiếng là gốm sứ -China. Rõ ràng cái cách mà người Việt gọi tên Trung Quốc không giống cách mà họ gọi tên các nước khác. Cái tên "nước ở giữa thiên hạ" đó đã được dung nạp nguyên xi cả nghĩa đen và nghĩa bóng vào tiếng Việt.
Có ý kiến cho rằng chữ viết TQ ngày nay là kết quả của sự kết hợp giữa chữ viết cổ của người Hán với chữ viết cổ của người Việt, thậm chí cho rằng người Hán "ăn cắp" chữ viết của người Việt. Điều này hoàn toàn có thể, nhưng tiếc rằng người Việt không tìm cách chứng minh nó một cách khẩu phục tâm phục mà trái lại cứ tiếp tục sử dụng và gọi chữ Hán là "chữ Nho" (tốt đẹp) đồng thời tìm cách "bắt chước" để tạo ra chữ Nôm làm phương tiện để truyền tải tư tưởng và giáo lý của kẻ thống trị vào dân mình. Đã có một thời người Việt từng coi chữ Nho là thước đo của tri thức và là điều kiện tiên quyết để đạt danh vọng, giàu sang phú quý. Người Việt cũng đã gọi hầu hết tên địa danh của nước mình giống với tên bên nước đô hộ. Tên "Biển Giao Chỉ" dần dần được đổi thành "Biển Nam Hải" và rất nhiều tên núi sông núi, địa danh và tên người đều được dịch ra một cách rất chi tiết. Nhiều tác phẩm văn thơ của nước thống trị cũng đã được dịch, sao chép hoặc viết lại như của mình! Chỉ đến gần đây khi TQ cố ý lợi dụng thuật ngữ "Biển Nam Trung Hoa" (tức Nam Hải) để đòi chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển ở phía Nam vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam thì người Việt mới bắt đầu thấy sự rắc rối của tên gọi và trở nên cảnh giác hơn bằng cách không dùng từ Biển Nam Trung Hoa mà chỉ dùng từ Biển Đông.
Sự vay mượn giữa các ngôn ngữ là lẽ đương nhiên và cần thiết để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên nếu vay mượn quá mức và không có sự chọn lọc ắt sẽ dẫn đến tình trạng "nợ nần", thậm chí là phá sản và lệ thuộc. Sự vay mượn của tiếng Việt đối với tiếng Hán (nay là tiếng Trung) đã diễn ra trong hàng ngàn năm nay. Quá trình đó có đoạn ngắt quảng bởi thời kỳ gần trăm năm Pháp thuộc mà trong đó đã diễn ra sự thay thế có thể nói là hiếm thấy giữa chữ Nôm (tượng hình) và chữ Quốc ngữ (tượng thanh) là 2 loại chữ viết cơ bản của nhân loại. Điều này vừa là lợi thế nhưng cũng là bất lợi đối với tiếng Việt. Đó là bên cạnh sự phong phú mà tiếng Việt tiếp thu từ hai thứ ngôn ngữ lớn của thế giới còn dẫn tới tình trạng pha tạp quá sức hấp thụ của nó. Đó là lý do gây ra những ảnh hưởng xấu đối với cái gọi là "sự trong sáng" của tiếng Việt như ta thấy ngày nay. Hầu hết người Việt ngày nay nói và viết bằng những từ ngữ Hán-Việt mà không thực sự hiểu về chúng, người nghe hoặc đọc cũng không hiểu, nhưng hai bên vẫn gật gù khen hay...(!). Có rất nhiều văn bản nhà nước không rõ ngữ nghĩa, không chỉ đối với dân thường mà cả đối với quan chức và giới "có học", thậm chí nhiều trường hợp bản thân người soạn thảo văn bản cũng không hiểu hết ý nghĩa của từ ngữ mà họ sử dụng. Đó là nguyên nhân tại sao các văn bản nhà nước, kể cả văn bản pháp lý, thường rất "dài dòng văn tự" mà vẫn phải đính kèm các phụ lục giải thích. (Bài viết tại đường link này cho thấy một phần lý do tại sao như vậy http://bookhunterclub.com/nhung-tu-dung-sai-trong-ngon-ngu-tieng-viet/ ) Có thể tác giả quá khắc khe khi "bắt lỗi" chăng(?), nhưng dù sao cũng cho thấy một phần thực trạng đáng báo động đối với tiếng Việt hiện đại.
Tình trạng pha tạp với tiếng Anh hoặc tiếng Pháp là một chuyện, nhưng sự pha tạp với tiếng Trung là một vấn nạn. Xin nêu ra đây một ví dụ, đó là việc người Việt sử dụng tên nước "Trung Quốc" theo nghĩa "nước ở giữa thiên hạ" trong khi thế giới gọi nước này với cái tên của một sản vật làm cho nó nổi tiếng là gốm sứ -China. Rõ ràng cái cách mà người Việt gọi tên Trung Quốc không giống cách mà họ gọi tên các nước khác. Cái tên "nước ở giữa thiên hạ" đó đã được dung nạp nguyên xi cả nghĩa đen và nghĩa bóng vào tiếng Việt.
Có ý kiến cho rằng chữ viết TQ ngày nay là kết quả của sự kết hợp giữa chữ viết cổ của người Hán với chữ viết cổ của người Việt, thậm chí cho rằng người Hán "ăn cắp" chữ viết của người Việt. Điều này hoàn toàn có thể, nhưng tiếc rằng người Việt không tìm cách chứng minh nó một cách khẩu phục tâm phục mà trái lại cứ tiếp tục sử dụng và gọi chữ Hán là "chữ Nho" (tốt đẹp) đồng thời tìm cách "bắt chước" để tạo ra chữ Nôm làm phương tiện để truyền tải tư tưởng và giáo lý của kẻ thống trị vào dân mình. Đã có một thời người Việt từng coi chữ Nho là thước đo của tri thức và là điều kiện tiên quyết để đạt danh vọng, giàu sang phú quý. Người Việt cũng đã gọi hầu hết tên địa danh của nước mình giống với tên bên nước đô hộ. Tên "Biển Giao Chỉ" dần dần được đổi thành "Biển Nam Hải" và rất nhiều tên núi sông núi, địa danh và tên người đều được dịch ra một cách rất chi tiết. Nhiều tác phẩm văn thơ của nước thống trị cũng đã được dịch, sao chép hoặc viết lại như của mình! Chỉ đến gần đây khi TQ cố ý lợi dụng thuật ngữ "Biển Nam Trung Hoa" (tức Nam Hải) để đòi chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển ở phía Nam vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam thì người Việt mới bắt đầu thấy sự rắc rối của tên gọi và trở nên cảnh giác hơn bằng cách không dùng từ Biển Nam Trung Hoa mà chỉ dùng từ Biển Đông.
Còn nhiều ví dụ tương tự không tiện nêu cả ra đây. Nhưng có thể nói, vì những lý do khách quan và chủ quan, người Việt đã chìm đắm trong trào lưu truyền bá ngôn ngữ của kẻ thống trị phương Bắc. Đó là một sự thật mà giờ đây nhìn lại, thật khó để phê phán, nhưng đồng thời cũng là sai lầm nếu phớt lờ và không có biện pháp khắc phục một cách tích cực và kịp thời. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề trực tiếp liên quan đến tương lai phát triển của tiếng Việt nói riêng và vận mệnh của dân tộc nói chung, phần nào nó cũng cản trở sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục. Vậy nên sẽ không có gì là cực đoan nếu Nhà nước chính thức đưa ra một chủ trương chính sách cụ thể nhằm từng bước hạn chế việc sử dung từ ngữ Hán-Việt đồng thời chỉnh đốn tất cả những gì đã được dung nạp một cách không thích hợp vào tiếng Việt từ trước tới nay. Đây là một công việc cần thiết và cấp bách, tuy rất khó khăn, phức tạp nhưng không phải là không thể nếu có sự chủ trương chính thức của Nhà nước với sự tham gia của các cơ quan chức năngvà sự hưởng ứng của người dân. Xin nêu ra đây một vài ví dụ. Trước mắt, nên chăng, ngoài nhu cầu phục vụ công tác bảo tồn bảo tàng và nghiên cứu lịch sử, không nhất thiết phải "tái sử dụng" từ ngữ Hán-Nôm làm gì. Việc học tiếng Trung là cần thiết nhưng cũng chỉ nên ở mức độ như các ngoại ngữ khác nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu quan hệ quốc tế. Cần có biện pháp đẻ từng bước hạn chế và tiến tới chấm dứt cách dịch tên, họ và địa danh của Trung Quốc ra tiếng Việt, thay vào đó chỉ nên dùng cách phiên âm bình thường như đối với các nước khác, chẳng hạn China hoặc Chung-cụa.... Không nhất thiết phải dịch họ tên người Trung Quốc ra tiếng Việt mà chỉ phiên âm như đối với người Nhật Bản , Hàn Quốc, Mông Cổ, Lào hoặc bất cứ nước nào khác. Cách này sẽ rất tiện lợi cho công tác học thuật và biên phiên dịch, nhất là đối với các thế hệ trẻ sau này, đỡ tốn thời gian và công sức khi phải chuyển đổi một tên người hoặc địa danh Trung Quốc sang tiếng Việt.Tất nhiên trong quá trình chuyển tiếp vẫn sử dụng những từ ngữ đã trở nên quen thuộc hoặc không thể thay thế.
Thiết nghĩ, những biện pháp trên đây nếu làm được thì cũng chỉ là tiếp tục thực hiện phương châm "giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" đã được phát động từ thời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên khi một người rất giỏi tiếng Hán như Cụ Hồ đã đi đầu và gương mẫu trong việc thay từ thuần Việt vào các từ ngữ Hán-Việt. Tiếc rằng ngày nay không chỉ người dân mà cả các cơ quan chức năng Nhà nước hình như cũng đang "quên lãng" điều này./.