Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Ngẫm từ trường hợp nghị Phước

Dư luận cả nước lại được một dịp bàn tán về "ông nghị" Hoàng Hữu Phước. Rất nhiều người không chỉ kịch liệt phê phán mà còn tỏ ra vô cùng ngạc nhiên tại sao một Ns Quốc hội mà vừa dốt vừa thô lỗ đến vậy? Nhiều người đòi phế truất ông nghị này ngay lập tức kẻo ô danh Quốc hội nước nhà! Cũng có người nghi ông Phước mắc chứng bệnh tâm thần trong khi một số người khác thì nghi có bàn tay phá hoại nước ngoài. Có thể nói, dư luận đang tập trung vào trường hợp nghị Phước như một vật thể lạ (SFO) trong khi ông ta có vẻ hoàn toàn tự tin chống trả dư luận như thể mình bị oan uổng lắm. 

Ns Hoàng Hữu Phước và Ns Dương Trung Quốc
Có lẽ chỉ một vài người còn dè dặt gọi hành động của nghị Phước là "vạ miệng". Nhưng đại đa ý kiến cho rằng một Ns như thế là không thể chấp nhận được. 

Tuy nhiên, có một điều cũng đáng suy ngẫm: Phải chăng hiện tượng nghị Phước chỉ là một cục băng nổi trong toàn bộ khối băng chìm của nền nghị trường Việt Nam. Khối băng chìm đó lâu nay luôn tồn tại trong một môi trường nhiệt độ lạnh lý tưởng, và giờ đây đang bắt đầu ấm dần lên khiến một vài cục băng tách ra và nổi lên mặt nước?  Điều gì sẽ xảy ra trong thời gian tới khi xu hướng nhiệt độ tiếp tục ấm lên? Và do đó, nên chăng đã đến lúc để nhận hiện tượng nghị Phước như một điều cảnh báo và một bài học?  

Đối với đại đa số người Việt Nam lâu nay, thì khái niệm Quốc hội là những cuộc họp "xuân thu nhị kỳ" diễn ra tại Hội trường Ba Đình nơi tập trung các loại xe con, xe to sang trọng đưa đón các đại biểu từ cả nước tụ về khiến hàng loạt tuyến đường trong trung tâm ách tắc. Người dân thường thấy hình ảnh Quốc hội họp nghiêm trang với hơn 500 đại biểu ngồi xếp hàng thẳng tắp hướng về phía Chủ tịch đoàn. Có lẽ cách sắp xếp ghế ngồi và khung cảnh trang nghiêm trong hội trường khiến mỗi đại biểu vốn nhỏ bé lại cảm càng cảm thấy mình bé nhỏ hơn rất nhiều. Và đó là một trong những điều kiện khiến cho các phiên họp Quốc hội đều diễn ra trong không khí cứng nhắc hoàn toàn giống nhau từ phiên này đến phiên khác. Phải thừa nhận là đã có một tiến bộ mới là gần đây khi người dân được theo dõi qua màn hình vô tuyến một số phiên chất vấn tại hội trường. Tuy nhiên về thực chất đó chỉ là sự phô diễn với những buổi truyền hình dài lê thê nhưng chỉ một số đại biểu đã quen mặt đứng lên đặt câu hỏi, và các bộ trưởng trả lời bằng cách đọc nội dung đã chuẩn bị sẵn. Nhiều khi người hỏi cứ hỏi,  người trả lời cứ trả lời theo ý của mình cũng chẳng sao. Tất cả dường như đều đã được "tập dượt" trước vậy.
Một phiên họp của Quốc hội (Ảnh minh họa)
Thiết nghĩ, hình thức sắp xếp hội trường và cách tổ chức các phiên họp như thế đã là một sự hạn chế về không gian tương tác giữa các Ns và giữa các Ns với Chủ tịch đoàn cũng như giữa Quốc hội với người dân. Sự gần gũi (nếu có) là qua màn hình người dân nhìn rõ những ông bà nghị ngủ gật hoặc làm việc riêng gì đó. Thử hỏi, trong hơn 500 nghị sĩ có bao nhiêu vị thật sự có đủ tâm và tầm để tham gia chất vấn và thảo luận một cách tự nhiên thoái mái với những nội dung mới mẻ như nhân dân mong đợi ? Có lẽ số này chỉ đủ đếm đầu ngón tay nhưng tiếc là một số vị đã phải về hưu giữa lúc đang còn sung sức. Với đà này, liệu bao giờ có đủ điều kiện để tạo nên không khí tranh luận lành mạnh có hiệu quả thật sự trong nghị trường Quốc hội nước nhà? 

Nghe nói tất cả các Ns đều được cử đi học vi tính và trang bị đầy đủ máy móc thiết bị hiện đại, nhưng khả năng ứng dụng còn rất hạn chế. Thực tế cho thấy đại đa số các ông bà nghị đều hạn chế về năng lực hoặc do động cơ cá nhân nên không thể hoặc không muốn tham gia chất vấn, tranh luận. Số này dân gian  gọi là "nghị gật". Trong bối cảnh đó, ông nghị Hoàng Hữu Phước vốn có chút ít tiếng Anh và biết sử dụng vi tính với cả một trang blog cá nhân. Có lẽ đó là thế mạnh mà ông ta muốn đem ra khoe trước đồng nghiệp và công chúng. Và ông ta đã trở nên "nổi tiếng" như mọi người thấy vừa qua? 

Câu hỏi ở đây là, điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả hoặc đại đa số các đại biểu Quốc hội đều tham gia tranh luận, tức là không "gật" nữa mà "lắc" đầu? Chắc lúc đó sẽ có nhiều hơn những ông bà như "nghị Phước" thậm chí còn tệ hơn! Đó là chưa kể nhiều trường hợp các vị không chỉ nói sai mà cố tình làm sai gây ra những hậu quả khôn lường cho đất nước như đã từng thấy.   
         
Vậy nên chăng, dư luận dù có bức xúc bao nhiêu về trường hợp nghị Phước thì cũng nên dành chút lòng vị tha cho ông ta như một người đã gióng lên một tiếng chuông báo động về tình trạng của nghị trường đất nước lâu nay. Có lẽ trước khi có một nghị trường thực thụ chuyên nghiệp khó mà tránh khỏi những ông "nghị dởm" như Hoàng Hữu Phước./.   
 

Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2013

Tư liệu...+(3)

Quân đội làm Kinh tế: Tướng tá vừa ăn Lương Nhà nước vừa chia Lợi nhuận kinh doanh, không rõ viêc đóng thuế và kiểm toán... như thế nào?    

Hiện tại, Bộ quốc phòng đang quản lý hơn 110 doanh nghiệp, hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực kinh doanh như: Cơ khí, hóa chất; Nông, lâm và hải sản; Điện, điện tử, viễn thông; Dệt may, da giày; Thực phẩm, đồ uống, dược phẩm; Thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ; Thương mại và dịch vụ; Xây dựng, Vật liệu xây dựng…
Thiếu tướng là cấp bậc cao nhất cho Tổng giám đốc Tổng Công ty
Thiếu tướng là cấp bậc cao nhất cho Tổng giám đốc Tổng Công ty.

Trực thuộc và chịu sự quản lý của Bộ Quốc Phòng, các doanh nghiệp quân đội tùy theo quân số (số lượng quân nhân, công nhân viên, nhân viên), tính chất và nhiệm vụ sẽ đóng vai trò tương đương một Quân khu/Quân chủng (Tập đoàn Viettel), Quân đoàn/Binh chủng (Các Tổng công ty), hoặc Sư đoàn (Các công ty).
Theo nghị định số 44/2005/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 5-4-2005, quy định nhóm chức vụ chuẩn và cấp bậc quân hàm cao nhất tương ứng của sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam:

(Các quân hàm Chuẩn đô đốc/Phó Đô Đốc/Đô Đốc dùng cho binh chủng hải quân)
(Các quân hàm Chuẩn đô đốc/Phó Đô Đốc/Đô Đốc dùng cho binh chủng hải quân) .

Theo đó, Tập đoàn Viettel - tập đoàn kinh tế duy nhất của quân đội - cũng là doanh nghiệp quân đội duy nhất có TGĐ giữ quân hàm Trung tướng, đó là Trung tướng Hoàng Anh Xuân - Tổng giám đốc Viettel.
Quân hàm này tương tương ứng với chức vụ Tư lệnh Quân khu/Quân chủng/Chủ nhiệm tổng cục. Quân số Viettel hiện có hơn 30.000 người, cũng tương đương 1 quân đoàn.
Hai lãnh đạo khác của Tập đoàn Viettel đã được phong quân hàm Thiếu tướng là các Phó Tổng giám đốc: Dương Văn Tính (Bí thư Đảng ủy) và ông Nguyễn Mạnh Hùng.
Tại các Tổng công ty Quân đội (tương đương các Quân đoàn/Binh chủng), chức vụ Tổng giám đốc (tương đương Tư lệnh) và Bí thư Đảng ủy (tương đương Chính ủy) của các đơn vị này, cấp bậc quân hàm cao nhất được trao là Thiếu tướng.
Các Tổng giám đốc (~ Tư lệnh) và Chính ủy kiêm Phó Tổng giám đốc của Các Tổng Công ty đã được phong hàm cấp Thiếu tướng gồm:
Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12):
- Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
- Thiếu tướng Trần Thanh Hải, Chính ủy Binh đoàn 12 kiêm Phó Tổng giám đốc.
Tổng Công ty 15 (Binh đoàn 15): Thiếu tướng Nguyễn Xuân Sang, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
Tổng Công ty Đông Bắc: Thiếu tướng Phạm Ngọc Tuyển, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn: Thiếu tướng Nguyễn Đăng Nghiêm, Tổng Giám đốc (~Chuẩn Đô đốc)
Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam (VNH): Thiếu tướng Hà Tiến Dũng, Chủ tịch kiêm TGĐ
Tại các Công ty Quân đội (tương đương các Sư đoàn/Vùng hải quân/Vùng cảnh sát biển), Tổng giám đốc (tương đương Tư lệnh) và Chính ủy của các đơn vị này, cấp bậc quân hàm cao nhất được trao là Đại tá.
Theo quy định, việc bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm đối với lãnh đạo này là do:
- Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Chủ nhiệm Tổng cục, Tư lệnh Quân khu, Tư lệnh Quân chủng, Tư lệnh Quân đoàn và các chức vụ tương đương; phong, thăng quân hàm Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân;
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bổ nhiệm các chức vụ và phong, thăng các cấp bậc quân hàm còn lại.
Theo cấp tổ chức, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ thấp đến cao là Tiểu đội, Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn, Trung đoàn, Lữ đoàn, Sư đoàn (trước đây gọi là Đại đoàn), Cấp cao nhất là Quân đoàn (Binh đoàn).
Về mặt địa lý, đơn vị quân sự cao nhất là Quân khu, chỉ huy quân địa phương và một số binh đoàn, binh đội trực thuộc.
Ngày 26-6-1980, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 27, về việc Quân đội thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng kinh tế, sau đó, ngày 27-9-1980 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 579/QĐ-QP chuyển nhiệm vụ của các đơn vị lực lượng vũ trang từ huấn luyện quân sự sang nhiệm vụ xây dựng kinh tế, dưới hình thức các Công ty trong quân đội (tiền thân là các Sư đoàn/Binh đoàn).
Ngày 19-8-2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công văn số 1455/TTg-ĐMDN về việc thành lập các Tổng Công ty hoạt động theo hình thức Công ty mẹ – Công ty con trên cơ sở tổ chức lại các Công ty TNHH một thành viên thuộc Bộ Quốc phòng, nhiều công ty đã chuyển đổi thành Tổng công ty.
Năm 2012, khối doanh nghiệp quân đội (100% vốn nhà nước) đạt doanh thu hơn 221 nghìn tỷ đồng (tăng 11% so với năm 2011), lợi nhuận đạt hơn 30 nghìn tỷ đồng (tăng 27% so với năm 2011), nộp ngân sách hơn 17 nghìn tỷ đồng (tăng 24% so với năm 2011), tạo việc làm và thu nhập ổn định cho 195 ngàn người, thu nhập bình quân người lao động 8,5 triệu đồng/người/tháng...
Theo Kỳ Anh CafeF/Tranhungo9


Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Ngoại giao đâu chỉ việc lớn

 
Nhiều người ngoài ngành và cả một số người trong ngành ngoại giao vẫn tưởng rằng làm ngoại giao là làm những việc to tát hệ trọng như hội nghị quốc tế, đàm phán ký kết hiệp định, các chuyến thăm của nguyên thủ quốc gia hoặc các yến tiệc linh đình... Nhưng thực ra phần lớn công việc ngoại giao còn được thực hiện từ các khâu chức năng như lãnh sự, lễ tân, báo chí, và các khâu hậu cần như quản trị -tài vụ, hành chính, văn thư  v.v…Tất cả tạo thành sức mạnh tổng hợp của ngành này. Để minh hoạ, xin được kể một trường hợp cụ thể dưới đây. 
  
Một ngày giữa tháng 6/2006 có mấy người Việt kiều phóng xe vượt qua gần 200 cây số từ thị trấn Svenborg đến Đại sứ quán Việt Nam tại thủ đô Copenhagen để nhờ “cứu” một nhóm người mà họ gọi là “bà con” đang bị giam giữ tại Nhà tù Copenhagen chờ trục xuất về Việt Nam. Họ gồm 7 người Việt từ Thành phố Hồ Chí Minh mới sang Đan Mạch bằng thi thực du lịch nhưng lại đi làm việc thu hoạch mùa màng cho các nông trại nên đã bị cảnh sát bắt và giao cho Tòa án địa phương xét xử. Và mọi việc đã diễn ra rất nhanh gọn chỉ trong không đầy 1 tuần lễ, 7 người đó đã bị kết án “lao động bất hợp pháp”và chuyễn lên giam tại Nhà tù Copenhagen trong diện chờ "trục xuất ngay lập tức" (immediate expulsion).  

Thực ra ở Đại sứ quán chúng tôi đã nghe nói nhiều về tình trang “lao động đen” tại Đan Mạch, nơi mà mặc dù đang thiếu nhân lực trầm trọng nhưng vẫn áp dụng một khung pháp lý rất nghiêm khắc đối với người lao đông nước ngoài không có giấy phép. Trường hợp liên quan 7 người Việt Nam lần này cũng là bình thường không có gì đáng thắc mắc. Tuy nhiên, đây là trường hợp đầu tiên có Việt kiều từ địa phương xa đến Sứ quán “cầu cứu” trong tình trạng gấp gáp như vậy. Do đó, Sứ quán khó tránh khỏi sự do dự với những ý kiến khác nhau. Đa số cho rằng sự việc đã đến mức ấy thì không nhất thiết phải can thiệp, mà nếu can thiệp cũng chưa chắc có kết quả. Bản thân tôi lúc đó vừa đi công tác về nên hoàn toàn có thể không làm gì cả cho "yên thân". Nhưng nghĩ lại tôi thấy không đành lòng. Hơn nữa, là Tham tán trực tiếp phụ trách công tác lãnh sự, tôi thấy mình có trách nhiệm trong việc này khi tất cả số người đó đều là công dân Việt Nam, mang hộ chiếu của Việt Nam và đã xuất cảnh từ Việt Nam. Tôi quyết định gặp lại nhóm Việt kiều lúc đó đang nán lại tại Copenhagen chờ tin tức, chưa chịu về Svenborg. Qua đó được biết thêm: Vụ bắt giữ lần này là do có người trong nội bộ Việt kiều mâu thuẫn nhau trong làm ăn đã “mách“ cảnh  sát, chứ bản thân cảnh sát địa phương thì đã định “lờ đi”... Anh Nhân (đại diện nhóm Việt kiều) cũng cho biết: nguyên vọng thiết tha nhất của bà con là làm sao tránh được "tội danh trục xuất” để bảo vệ danh dự và việc làm khi về nước.
Xét thấy thời gian còn quá ít, tôi căn cứ vào các thông tin nói trên và gọi trực tiếp vàomáy di động của ông Cảnh sát trưởng địa phương Svenborg cũng là người trực tiếp xử lý vụ việc nói trên. Qua mấy lời chào hỏi giới thiệu, nhận thấy ông này nói tiếng Anh khá chuẩn và có thái độ đúng mực, tôi liền trình bày tiếp luôn vào trọng tâm vấn đề, bày tỏ đáng tiếc về vụ việc không hay đã xảy ra…, mong ông hiểu cho  người Việt Nam có phong tục giúp nhau thu hoạch mùa màng, đôi khi chỉ để ăn bửa cơm cho vui, chứ không vì tiền công…; hơn nữa  họ còn trẻ, sang Đan Mạch du lịch, nếu muốn kiếm thêm chút tiền để bù đắp chi phí thì mong các ông thông cảm…

Bài "kể khổ” của tôi hình như đã kích đúng giây thần kinh nhân đạo của viên Cảnh sát trưởng của một đất nước giàu có và coi trọng con người. Bằng  một giọng xúc động thật sự mà tôi có thể cảm nhân được qua điện thoại, ông ấy thanh minh "đã không định bắt họ nếu không có người tố cáo...”. Lúc này chính tôi cũng trở nên cảm động về sự cảm động của ông Cảnh sát trưởng. Tôi nghĩ thầm, như vậy coi như đã 60% thành công rồi(!) nên xin cảm ơn và chào hẹn gặp lại.

Ngay sau đó, tôi bấm máy gọi Nhà tù Copenhagen  xin găp viên sĩ quan trực tiếp phụ trách 7 người Việt bị giam giữ. Tôi chỉ nói xã giao với ông này và tỏ rõ sự quan tâm của Sứ quán đến vụ việc.  Tôi cố ý đợi quảng 1 tiếng sau thì gọi lại cho ông bạn Cảnh sát trưởng Svenborg và “nói khó dễ” rằng tôi đã trao đổi ý kiến với đồng nghiệp của ông trên Copenhagen và được biết vụ này chủ yếu là do Cơ quan Cảnh sát và Toà án địa phương Svenborg thụ lý;  Nhà tù Copenhagen chỉ thi hành án… Do đó “còn nước còn tát’,  mong ông hãy làm ơn trao đổi lại với Copenhagen… Để tăng cường lý do thuyết phục, tôi lập luận rằng do hạn chế ngôn ngữ tôi sợ khó trình bày một việc có tính chuyên môn như vậy..., nên tốt nhất là ông giúp cho thì tiện lợi hơn rất nhiều. Biết ông  là người tình cảm, nên tôi cũng trình bày luôn rằng những  người Việt Nam dó đều là những người lao động, họ lo sau này về nước mang tiếng đã phạm pháp bị trục xuất thì sẽ mất việc làm…Rồi tôi gợi ý: Để tránh cho họ hình thức trục xuất, các ông có thể trao lại hộ chiếu tại sân bay Copenhagen và không cần người áp tải đến Việt Nám như thường lệ.  Nếu được thế,  Đại sứ quán chúng tôi xin đảm bảo họ sẽ về Việt Nam mà không xảy ra vấn đề gì”. Sau một hồi trao đổi ý kiến, cuối cùng ông Cảnh sát trưởng Svenborg đồng ý nhận đứng ra trao đổi ý kiến với Nhà tù Copenhagen. Điều này khiến tôi vô cùng vui mừng và xúc động.   

Nhưng kết quả còn đáng mừng hơn  khi gần trưa hôm sau đích thân ông  Cảnh sát trưởng Svenborg gọi di động lại cho tôi thông báo  "Mọi việc đã thu xếp xong theo yêu cầu của Sứ quán…”. Ông ấy cho biết thêm: 7 người Việt Nam đó sẽ  được trao lại hộ chiếu tại Sân bay Quốc tế Copenhagen và cho phép gặp lại một số bà con của họ tại sân bay để nhận lại các đồ đạc tư trang đem về nước, nghĩa là họ sẽ được về Việt Nam như hành khách bình thường.  Ông cũng cho biết  chuyến bay sẽ phải chậm lại 2 ngày so với dự định ban đầu. Có một chi tiết ông không nói ra nhưng lúc trao trả hộ chiếu tại sân bay phía bạn còn cấp cho mỗi “phạm nhân” 200 USD gọi là "tiền tiêu vặt"(pocket money).
Như vậy là mọi việc cơ bản đã được thu xếp trong một thời gian ngắn nhất có thể. Dĩ nhiên sau đó Đại sứ quán cũng đã cử người đến làm việc với trại giam, ra sân bay chứng kiến và tiễn  bà con về nước. Bà con Việt kiều  và những người về nước đều rất xúc động và biết ơn về sự giúp đỡ kịp thời  của Đại sứ quán.
                   
Đó chỉ là một việc nhỏ trong muôn vàn công việc mà các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài cần làm và có thể làm . Một hành động trợ giúp kịp thời như vậy không chỉ đơn thuần là hoàn thành chức năng nhiệm vụ bảo vệ công dân mà còn góp phần tăng cường quan hệ giữa cộng đồng Việt kiều với quê hương đất nước đồng thời nâng cao uy tín của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế rằng Nhà nước Việt Nam thật sự tôn trọng công dân của mình. Tôi còn nhớ,sau sự kiên “cứu người lao động" nói trên đã hình thành một quan hệ thân tình giữa cộng đồng Việt kiều tại Svenborg xa xôi với Đại sứ quán Việt Nam tại Copenhagen. Từ đó hai bên thường xuyên liên hệ và gặp nhau trong những dịp lễ, Tết…Có lần bà con đã mời Sứ quán đến thăm cộng đồng Việt kiều tại Svenborg và tự hào giới thiệu khu "Vườn Việt Nam" mà chính quyền địa phương cấp đất để bà con tự xây dựng nên. Thật xúc động khi mọi người cùng đứng bên nhau trong mãnh "Vườn Việt Nam" tại một vùng xa xôi tận cực bắc châu Âu. (xem ảnh)  

Hà Nội, mùa Hè 2009

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

Bài học liên quan cuộc chiến tranh biên giới 1979

Một dấu hiệu đáng mừng là, trong dịp kỷ niệm chiến tranh biên giới ngày 17/2 năm nay dư luận công chúng  Việt Nam tỏ ra quan tâm hơn mọi năm trước mặc dù trong khi Nhà nước vẫn  tiếp tục chủ trương "yên lặng là vàng". Điều này không chỉ thấy trên cộng đồng blog mà cả trên các cộng đồng mạng khác như Facebook, Twitter ...với  rất nhiều  bài viết và bình luận. Đồng thời cũng bắt đầu tìm thấy sự đồng thuận quan điểm giữa "lề trái" và "lề phải" liên quan đến chủ đề này, trong đó đáng chú ý là việc Báo Thanh Niên đăng bài trả lời phỏng vấn của lão tướng Lê Văn Cương và trở thành "hot news" trong suốt tuần qua. 

Tình hình trên cho thấy hoàn toàn phù hợp với quy luật quần chúng là động lực của tiến bộ xã hôi, và đó là một quá trình khó khăn, phức tạp, lâu dài  như nó vốn vẫn vậy. Chỉ với một vấn đề tưởng chừng đơn giản như vậy, nhưng đất nước này đã và đang phải trả những cái giá quá đắt. Cuộc chiến tranh do kẻ thù ngoại xâm gây ra 33 trước nhưng vẫn để lại một cuộc chiến tranh khác trong nội bộ dân tộc. Bất chấp sự thật và những lý lẽ từ công luận, đặc biệt của những "người trong cuộc" như tướng Lê Văn Cương,. Nhà nước vẫn tiếp tục chủ trương tránh nhắc đến cuộc chiến xâm lược đó chỉ vì nó do Trung Quốc gây ra (!), kể cả trong bối cảnh chính kẻ xâm lược đó đang ráo riết xâm lấn biển đảo và đe dọa xâm lược. Nguyên nhân nào, nếu không phải là sự sai lầm trong cách tư duy của một bộ phận những người lãnh đạo đất nước? Chẳng lẽ từng ấy những bộ óc "tinh hoa" của dân tộc không thể nhận ra đâu là phải/trái?. Hay vì những lý do lợi ích cục bộ thiển cận họ cố tình quên đi những bài học của ông cha và cả bài học của chính mình?.  Chẳng lẽ sự đóng góp ý kiến đầy tâm huyết của  rất nhiều nhân sĩ và nhân dân trong và ngoài nước đều không thể chấp nhận được đối với họ?
Để trả lời những câu hỏi trên, trước hết xin trích nguyên văn lời của Lão tướng Lê Văn Cương mới đăng trên báo Thanh Niên (Những dòng gạch dưới là để nhấn mạnh):
"...vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này?  Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.
Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.
Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là  không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua".

Qua những gì thể hiện trên công khai cho thấy, chủ trương không nhắc lai cuộc chiến tranh xâm lược biên giới 1979 là một trong những biện pháp được coi là "mềm dẻo, khôn khéo" mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đang áp dụng để hy vọng làm hài lòng phía đối phương. Điều này không ai nhầm lẫn. Nhưng đó cũng là một cái bẫy mà phía Trung Quốc luôn giăng ra đối với Việt Nam. Muốn biết họ có thực lòng đón nhận thiện chí của ta hay không thì hãy nhìn vào những hành động của họ. Trong nhiều năm qua hành động đáp trả của phía TQ đều hoàn toàn ngược lại. Đó là những chiến dịch lấn chiếm biển đảo và de dọa chiến tranh ngày càng trắng trợn. Khuyên ta "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai..." nhưng Bắc Kinh lại tuyên truyền khuếch đại cuộc chiến như một thắng lợi vẽ vang... nhằm kích động dân chúng tiếp tục chính sách bành trướng.

Chúng ta, những người Việt Nam vẫn biết mềm dẻo là một chủ trương mang tính truyền thống dân tộc, coi đó là một trong những bí quyết thành công trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sau này. Nó là một bảo bối mà không chỉ giới đương chức mà cán bộ, quân nhân đã nghĩ hưu và nhân dân đều thấm nhuần. Âu đó cũng là điều dẽ hiểu nếu nhìn lại toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam gần đây. Chỉ có điều khác ở sự vận dụng vào từng tình huống hoàn cảnh cụ thể. Từ sau ngày giải phóng và thống nhất đất nước, thế trận của Việt Nam dù muốn hay không đã hoàn toàn khác trước, trực tiếp ảnh hưởng đến cách nhìn nhận bạn/thù cũng như việc vận dụng sách lược của Việt Nam  Để khỏi trình bày dài , xin dẫn lại đường link tới bài viết cách đây không lâu của cùng tác giả để tiện tham khảo  http://trankinhnghi.blogspot.com/2011/04/tran-viet-nam-can-mot-tu-duy-moi.html

Vẫn biết hòa bình vô cùng quý giá, nhất là đối với Việt Nam.Vẫn biết Việt Nam nhỏ bé và nghèo yếu hơn Trung Quốc.Và vẫn biết Việt Nam không nên bao giờ chủ trương đối đầu với Trung Quốc dù cho đó là kẻ thù truyền kiếp. Nhưng trên tất cả là lợi ích của một quốc gia độc lập, tự chủ với sự toàn vẹn lãnh thổ, cả trên bộ, trên biển và trên không. Đó là lợi ích sống còn của dân tộc Việt Nam. Nó không thể đem ra nhân nhượng dù công khai hay bí mật. Và đó là nguyên nhân tại sao nhân dân Việt Nam luôn sẵn sàng chống trả mọi kẻ thù xâm lược dù chúng đến từ đâu và lớn mạnh đến mức nào. Đó là những sự thật mà những người lãnh đạo đất nước không nên quên. Theo đó, mọi chủ trương chiến hay hòa, mềm hay rắn, biện pháp có thực sự "khôn khéo" hay không, đều phải được nhân dân đồng lòng ủng hộ, hay nói đúng  ra  là "phê duyệt" thì mới có thể áp dụng thành công. Ở đây ta thấy có một nghịch lý. Đó là, trong khi một số người lãnh đạo hiện nay coi việc kiềm chế không nhắc lại cuộc chiến xâm lược biên giới 1979 là là cách làm mềm dẻo, khôn khéo không thể thiếu được và đòi hỏi dân chúng phải tuân theo bất chấp tâm tư tình cảm và lợi ích thiết thân của họ. Kết quả hơn 30 năm qua cho thấy hoàn toàn ngược lại: Nguy cơ ngoại xâm Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng trong khi lòng dân ngày càng bất mãn xa rời với Lãnh đạo, thể hiện ở nhiều mặt, trong đó có những hoạt động biểu tình tự phát (một hình thức mà trước đây nhân dân chỉ dùng để hưởng ứng phong trào đấu tranh do Đảng phát động) tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác và đã bị chính bộ máy công an chính quyền đàn áp. Đó là một nghịch lý cả về hình thức và nội dung. Chính quyền làm như vậy có khác nào "gậy ông đập lưng ông" và hoàn toàn trái ngược với đường lối của Đảng và Nhà nước?.

Khôn khéo, mềm dẻo đâu không biết, chứ riêng việc không tổ chức kỷ niệm ngày chiến tranh biên giới thì  rõ ràng là "lợi bất cập hai". Trước hết đó là sự xúc phạm rất nặng nề đến tình cảm của nhân dân nói chung, đặc biệt của các gia đình có quân nhân đã tham gia hoặc hi sinh trong cuộc chiến tranh đó.Đó là một biện pháp thiển cận mất lòng dân . Nó chỉ có lợi cho các thế lực đen tối bên ngoài hoặc trong nội bộ. Việc này chắc chắn sẽ để lại những hậu quả khôn lường về lâu dài. Lịch sử sẽ gọi đó là thời kỳ gì ? Khôn khéo đâu không biết, chứ khi mà đích thân một vài vị tướng lĩnh cao cấp của quân đội lại trực tiếp đứng ra "làm ngoại giao" ca ngợi, cảm ơn kẻ thù thì cũng là chuyện hiếm có trên thế giới! Hành động đó khiến kẻ thù đắc chí trong khi dân ta thì bất bình khó hiểu sinh ra mất lòng tin. Thiết nghĩ điều khôn khéo nhất vào lúc này là hãy làm sao lấy lại lòng tin của nhân dân vốn đang suy giảm nghiêm trọng, đồng thời củng cố khối đoàn kết quân dân và sự đồng lòng của toàn thể dân tộc vốn bảo bảo bối hửu hiệu nhất để phòng ngừa chiến tranh. 

Từ những bài học của cả quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, cụ thể là tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhỏ của quân Trung Quốc đối với Việt Nam đều cho thấy khi nào phía Việt Nam chủ trương cầu hòa bị động, đó là lúc kẻ thù hăng hái muốn tấn công, khiến ta dù không muốn chiến tranh, thì lại bị chiến tranh tàn phá trước tiên. Tất nhiên rồi nhân dân sẽ cùng nhau tổ chức kháng chiến cho đến thắng lợi mới thôi. Nhưng đó là chuyện bất đắc dĩ. Nhân đây xin nhắc lại chuyện cũ nhưng vẫn còn có lý: Có ý kiến cho ra rằng cuôc chiến tranh biên giới 1979 có thể đã không xảy ra nếu phía Việt Nam đã điều động lực lượng chính quy đề răn đe trước, hoặc nếu đã có một tuyên bố ủng hộ từ một "bên thứ ba". Tư liệu cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đã chưa thực sự chủ động tính đến những biện pháp phòng ngừa như vậy!  Và hiện tại tôi nghĩ Việt Nam cũng chưa định làm như vây, có lẽ vì  vẫn tin vào "hiệu quả" của chủ trường mềm dẻo khôn khéo...với kẻ thù (!?) 

Những bài học còn cho thấy sự tai hại như thế nào đối với những người lính tại chỗ khi bị tấn công bất ngờ (như ở Đồn Bò Hèn và các đồn dọc biên giới phía Bắc hồi  năm 1979, và tại một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988). Lỗi đó từ đâu, nếu không phải là từ cấp cao? Có lẽ nên nhắc lại rằng nhân dân cần ở người lãnh đạo vai trò của một thủ lĩnh. Họ chỉ biết tuân theo hướng chỉ tay của người thủ lĩnh. Và điều vô cùng nguy hiểm là khi họ không biết thủ lĩnh đang chỉ tay về hướng nào.

Nên chăng, bài học lớn nhất là hãy gác lại niềm tin mơ hồ vô căn cứ vào đối phương ngay cả khi chúng chưa lộ nguyên hình "gặc xâm lược ". Phòng bệnh hơn chữa bệnh, chủ động phòng thủ  là quốc sách răn đe hửu hiệu nhất. Muốn vậy phải để cho dân biết, dân bàn và dân làm; Đảng và Nhà nước không thể làm thay, và tuyệt đối không nên áp đặt bắt toàn dân phải làm theo ý mình . Vai trò Lãnh đạo đất nước chỉ có thể phát huy đầy đủ khi người lãnh đạo thực sự "quán triệt" điều tưởng chừng đơn giản này./.

Hà Nội, 18/2/2013

Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013

Người Hèn

Nhân ngày 17/2 thấy bài thơ này từ e-mail của một người bạn khá "hợp cảnh hợp tình", lại của tác giả Phạm Chuyên, một tướng CA về hưu..., nên giá trị càng "quý hiếm"!. Xin mạn phép đăng lại trên blog Bách Việt để chia sẻ cùng bạn đọc. Đồng thời cũng xin đăng kèm  dưới đây bức ảnh đã được lưu truyền rộng rãi nhiều năm nay cho thấy cận cảnh một đài tưởng niệm quân TQ xâm lược tại Lạng Sơn bị những kẻ hèn đục bđể làm vật chứng.  

Thiết nghĩ trên đời có nhiều  loại  hèn, nhưng hèn trước quân ngoại xâm dù được biện hộ bằng chủ thuyết gì cũng đều là một loại hèn tồi tệ nhất phải bị lên án rộng rãi trong toàn dân trước khi quá muộn -Bách Việt.
 
.
 
 Đất nước ngàn năm
Hiếm kẻ bán nước
Có nhiều nhặn gì đâu,
Một Trần Ích Tắc
Một Lê Chiêu Thống
Một Hoàng Văn Hoan.
 
Đất nước ngàn năm
Quá lắm người hèn
Hèn vì quyền cao chức trọng
Hèn vì nhà cao cửa rộng
Hèn vì miếng cơm manh áo
Hèn vì vợ dại con thơ
Hèn vì danh hão danh hờ.

Hèn mà còn nhận ra
mình là thằng hèn
Là hèn tử tế.
Hèn ngậm miệng ăn tiền
hèn nhơ bẩn
Hèn ngậm miệng ăn tiền
hèn bất nhân
Hèn bán đất bán nước
Trời tru đất diệt
Hèn ơi! Đất nước ơi! 
 Tác giả: Phạm Chuyên 


Thứ Hai, 11 tháng 2, 2013

Hạt Giống Sự Thật

Ngày đầu năm  Nhóm bạn già chuyền nhau mẩu chuyện ngụ ngôn thông thường nhưng rất ý nghĩa trước thực trạng đất nước ta bấy lâu nay. Liệu bao giờ nước mình sẽ xuất hiện một ông vua như thế?. Xin đăng lại đây để mọi người cùng suy ngẫm -Bách Việt


Chuyện kể rằng, một vị vua nọ giàu đức hạnh, nhưng không có hoàng tử nối ngôi. Vua nghĩ tới việc chiêu mộ những người trẻ tài đức để có thể kế vị sau khai ông qua đời.
Một ngày kia, vua cho mời tất cả các trẻ em từ 5 đến 12 tuổi vào hoàng cung. Vị vua giải thích cho các em ý định của ông là muốn tìm người tài đức để thay ông cai quản đất nước. Ông trao cho mỗi em một hạt giống và dặn các em rằng sau ba năm, các em hãy mang cái cây đã trồng đến trình diện tại cung điện. Sau khi nhận hạt giống, mỗi em đều nhiệt tình trồng và ngày đêm chăm sóc chúng, hy vọng cây của mình sẽ lớn nhanh và có thể sinh hoa kết quả. 

         http://www.khuyennongtphcm.com/upload/Nam%202011/Thang%201/bauholo.jpg              

Đúng ngày đã hẹn, cả nước đổ dồn vào cung điện để xem cây nào đẹp nhất, có nhiều quả nhất, và để xem ai sẽ là vị vua tương lai của đất nước. Quả đúng như dự tính, mỗi em đều mang đến cây mà mình đã trồng với nhiều màu hoa hương sắc. Người ta cũng thấy có những cây đã kết trái thật xum xuê. Nhà vua đi đến hỏi thăm các em, cách thức các em trồng cây. Sự hồi hộp và im lặng của đám đông càng tăng lên khi nhà vua tiến đến gần những cây tươi tốt.


Thế nhưng, nhà vua vẫn tiếp tục đi qua và bỗng dưng ông dừng lại trước một cậu bé. Trên tay cậu bé là một chậu đất không cây. Thấy nhà vua đứng lại, cậu biểu lộ sự thất bại bằng dòng nước mắt chảy dài trên má. Nhà vua hỏi: "Tại sao con khóc?" Cậu bé thưa: "Con đã gieo hạt giống vào chậu đất này, con đã bón phân cho nó, con đã tưới nước cho nó hằng ngày, con đã che nắng cho nó và con đã làm nhiều cách để chăm sóc hạt giống của con, nhưng cuối cùng không có cây nào mọc lên". Càng nói, cậu bé càng khóc.       







Nhà vua ôm cậu vào lòng và ra lệnh cho quân lính mời cậu lên chỗ cao danh dự rồi lên tiếng: "Hôm nay, bệ hạ đã tìm được người mà bệ hạ mong đợi từ lâu. Cậu bé đây đã chân thật khi thừa nhận thất bại. Và thực đúng là như vậy. Vì tất cả hạt giống ta trao cho các con cách đây ba năm, chúng đã bị luộc chín cả rồi".

        

 Nhà vua quay qua cậu bé và nói. "Con đã biết thành thực và trung tín trong việc nhỏ; con đã không bị ngai vàng và danh lợi mê hoặc; con đã cần mẫn chu toàn công việc với tất cả khả năng của mình. Đó là điều ta mong muốn". Nhà vua nói tiếp: "Trên tay con là chiếc chậu đất không cây, nhưng chính trong trái tim con, con đã gieo hạt giống sự thật vào lòng mọi người hôm nay."    

                   


Thứ Sáu, 8 tháng 2, 2013

Cảm xúc

Tết này ra đường lại gặp những khẩu hiệu "Mừng Đảng, mừng Xuân"... Chuyện tưởng nhỏ như con thỏ, nhất là khi lòng dân đã quá rõ... Nhưng ý Đảng sao còn quá xa vời? Trong lòng bất giác trào lên một cảm xúc khó tả: Chẳng lẽ sự bảo thủ và trì trệ đáng sợ đến vậy? Chỉ  mỗi chuyện mừng trước mừng sau mà không nhường nhau được, thế thì lấy đâu ra dũng khí, dũng cảm để tiếp tục chèo lái con thuyền ?

Nói thật nhé! Hàng  ngàn lời phê và tự phê trong hàng vạn lần cuộc kiểm điểm cũng không bằng một động tác đơn giản là trả lại đúng chỗ của từ "đảng". Chỉ cần làm được thế đất trời sẽ hài hòa,  lòng dân được giải tỏa.... Cớ sao không làm? Hay chung quy chỉ tại...?    
Hà Nội, 28 Tết Quý Tị

Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

Tư liệu...+(2)

Dưới đây là nguyên văn bài viết mới  đăng ngày 4/2/2013 trên Tuổi trẻ và đăng lại trên Tin tức hàng ngày và nhiều báo mạng cho thấy bản thân nhà sử học hàng đầu đất nước-Dương Trung Quốc- không biết tác giả Trần Dân Tiên là ai(?) mặc dù sau rất nhiều tranh cãi trong và ngoài nước trong nhiều thập kỷ qua, kể cả một số nguồn tin chính thức của Đảng CS VN đã nói rằng Trần Dân Tiên là một trong những bút danh của  Hồ Chủ Tịch (Bách Việt )  

Cuốn "Những mẩu chuyện..." của Trần Dân Tiên làm thay đổi cuộc đời của ông Dương Trung Quốc

Ông Dương Trung Quốc
Tôi có một lý lịch nghề nghiệp rất đơn giản: sinh ra, lớn lên, đi học, thi học sinh giỏi môn sử phổ thông rồi tốt nghiệp khoa sử Đại học Tổng hợp Hà Nội, về Viện Sử học công tác cho đến khi về hưu vẫn tiếp tục hoạt động trong một hội nghề nghiệp của giới sử học và làm một tờ báo của Hội Sử. Có hơn một thập kỷ làm đại biểu Quốc hội thì ngẫm kỹ điều mình thể hiện trên diễn trường ấy cũng luôn là những vấn đề có liên quan đến lịch sử, lấy chuyện xưa vận vào chuyện nay, tựa như người nhắc vở vậy.
Với người làm nghề sử thì việc đọc sách là chuyện đương nhiên, như nông dân cày cấy, thợ may cắt vải nên khó chọn được một cuốn sách nào lại đủ sức “làm thay đổi cuộc đời” của mình. Nhưng ngẫm nghĩ kỹ có thể nhắc tới một cuốn sách dường như nó đã “bẻ ghi” khiến đời mình nghiêng về cái ngả đường mà đến thời điểm đã U-70 rồi thì có thể nói được rằng sẽ theo nghiệp nghề ấy đến lúc xuống... mồ.
Cú hích vào nghề
"Sau này, ngày càng có nhiều sách viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch vẫn được coi là cuốn sách sớm nhất, được tin cậy nhất và sách này luôn được tham khảo như một nguồn tư liệu gốc"
Tôi đến với nghề sử rất ngẫu nhiên, không hề có một hứng thú hay năng khiếu gì đặc biệt đối với cái môn dễ là khổ sai trí nhớ ấy. Đến lớp 10 niên khóa 1963-1964, Hà Nội tổ chức thi học sinh giỏi môn lịch sử. Chẳng biết vì sao cô giáo dạy sử lại chọn tôi với câu động viên: “Cô thấy em đi thi được đấy!”. Có lẽ vì nể trọng cô giáo mà tôi nhận lời. 

Chuẩn bị cho cuộc thi, cô giáo hướng dẫn: ngoài sách giáo khoa, nên tìm đến một người nào đó am hiểu lĩnh vực này để hỏi han thêm. Lớp tôi có một anh bạn có bố làm ở Viện Sử học. Tôi đến xin được ông chỉ giáo. Ông đưa cho tôi mấy số tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử bảo mang về nhà đọc thử một vài bài, rồi hẹn gặp lại để ông hướng dẫn. Trước lúc về tôi thấy trên bàn của ông có một cuốn sách không dày. Tôi vừa động tay vào thì nhà sử học đầu tiên mà tôi được gặp trong đời bảo: “Cuốn ấy không phải là sử đâu cháu ơi. À, nhưng đọc được lắm...”.
Đó là cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên. Về nhà, đọc các bài tạp chí thấy dài lằng nhằng càng đọc càng khó hiểu nên tôi chuyển sang cuốn sách và đọc một mạch từ trang đầu đến trang cuối. Hồi đó Bác Hồ còn sống, một đôi lần tôi được gặp, sách vở viết về Bác chưa nhiều như bây giờ nhưng hình tượng của con người còn sống ấy đã là thiêng liêng lắm. Cuốn sách ấy không thể nói là đã “làm thay đổi cuộc đời tôi”, song đã tạo một cái hích nhẹ và hướng tôi bước vào ngả đường nghề nghiệp mà vào thời điểm đó tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Cuốn sách “không phải là sử” ấy thật sự gây ấn tượng với tôi.
Cuốn Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch chắc nhiều người đã đọc vì từ khi được xuất bản lần đầu vào cuối thập kỷ 1940 đến nay đã qua gần bảy thập kỷ, đã được nhiều nhà xuất bản tái bản rất nhiều lần. Thông qua lời kể của một nhà báo có bút danh Trần Dân Tiên, người đã được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những ngày đầu nước nhà độc lập (1945), cuộc đời của nhà cách mạng và là người đứng đầu nhà nước Việt Nam độc lập được kể lại qua “những mẩu chuyện” như tên gọi của sách. Mục đích sách ra đời vào thời điểm đó dường như chỉ để trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh là ai?”, kể cả với những người nước ngoài.
Sau này, khi đã thâm niên trong nghề nghiệp, tôi có nhiều cơ hội đọc và gặp nhiều người nước ngoài, có người thuần túy là nhà nghiên cứu, có người là nhân chứng lịch sử, cũng có người là cả hai. Tôi đã nghe và đọc được rất nhiều cách tiếp cận, cách đánh giá khác nhau về cuốn sách này và nhân vật của sách...
Đam mê tìm kiếm sự thật
Hồi Liên Xô “mới đổ”, tôi là một trong những người Việt Nam sớm “mò đến” Lưu trữ cũ của Quốc tế Cộng sản ở thủ đô nước Nga để khai thác tài liệu về Hồ Chí Minh. Tôi được biết cách đó không lâu có một phụ nữ quốc tịch Mỹ cũng đã đến đây và cũng có mối quan tâm đến nhân vật lịch sử này. Rồi các đồng nghiệp Nga cho biết người phụ nữ ấy đã “lần mò” đến tận Leningrad để tìm kiếm những chi tiết liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh trong thời gian ở Liên Xô (cũ). Người phụ nữ ấy tên Sophie Quinn Judge.
Bẵng đi một thời gian tôi gặp bà ở Aix en Provence, nơi có một trung tâm lưu trữ quan trọng của Bộ Thuộc địa Pháp, ở đó có nhiều tư liệu liên quan đến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Nhưng nếu người ta chỉ quan tâm đến học thuyết hay sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh thì bà lại muốn tìm hiểu đời sống riêng tư, một phần không thể thiếu được nếu muốn tiếp cận một chính khách cũng như một nghệ sĩ. Theo bà, thật đáng tiếc chưa mấy ai quan tâm đến điều đó vì thế bà sẽ cố gắng lấp chỗ trống này.
Hồi đó bà mới chỉ đưa ra nhận xét bước đầu là càng nghiên cứu càng thấy nhân vật này có nhiều điều hấp dẫn. Vài năm sau Sophie Quinn Judge cho xuất bản ở Singapore một luận văn nghiên cứu về Hồ Chí Minh trong quãng thời gian ở châu Âu 1919-1940. Bà có gặp để trao đổi và gửi bản thảo cho tôi đọc trước. Cuốn sách của bà có thể có sự đánh giá khác nhau từ những người có quan niệm khác nhau, nhưng giữa những dòng chữ có thể thấy được thiện chí của một người muốn thỏa mãn đi tìm sự thật, công việc của một người làm sử.
Nhân dịp 110 năm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một nhóm làm phim đến phỏng vấn Sophie, bà vẫn nhắc lại cái điều bà từng nói với tôi khi mới bắt tay vào viết sách: “Lúc đầu tôi đã nghĩ rằng Hồ Chí Minh không tuyệt vời và thú vị như hình ảnh mọi người vẫn tuyên truyền, nhưng hóa ra ông ấy thật sự thú vị... Con người thật của Hồ Chí Minh rất thú vị”.
Cuốn sách nhỏ mà tôi nhắc đến trong bài viết này thật sự đã “dẫn tôi vào đời” nghề nghiệp để hướng tới cái khao khát muốn tìm ra những gương mặt thật đã tạo nên một lịch sử thật. Thỏa mãn cái khao khát ấy thật là khó, có khi cả đời nghề chưa làm được là bao nhưng lại vô cùng hấp dẫn. Nghiệm lại đời mình thấy cái làm được trong nghề không nhiều nhưng niềm say mê khiến mình đã theo nghiệp nghề này trọn đời lại làm mình thỏa mãn.
Xuân 2013
Dương Trung Quốc
(Tuổi trẻ)

--------------

Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013

Ban Nội chính TƯ chính thức ra mắt

 

Toàn cảnh nhân sự Ban Nội chính Trung ương
Dự kiến ngày 4-2, Ban Nội chính Trung ương, cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng chính thức ra mắt. Lãnh đạo Ban Nội chính Trung ương gồm 1 trưởng ban và 3 phó ban.
Ngày 28-12-2012, Bộ Chính trị đã ban hành các quyết định về việc thành lập Ban Nội chính Trung ương. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng ban hành Quyết định 655 phân công ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng giữ chức Trưởng ban Nội chính T.Ư.

Trưởng Ban Nội chính T.Ư Nguyễn Bá Thanh
Ông Nguyễn Bá Thanh (sinh năm 1953) là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng, Ủy viên Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Việt Nam.
Ông Nguyễn Bá Thanh quê ở xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Học vị: Tiến sĩ. Chức vụ hiện tại: Trưởng ban Nội chính Trung ương, trước đó là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. Ông tốt nghiệp trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 13 tháng 2 năm 1980.
Ông từng là Chủ nhiệm HTX Hòa Nhơn, Phó Bí thư Huyện ủy Hòa Vang, Giám đốc Nông trường Chè Quyết Thắng, sau đó là Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 1996 ông được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng đầu tiên sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 2003, sau khi ông Nguyễn Đức Hạt được điều động làm Phó trưởng ban Thường trực Ban tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Nguyễn Bá Thanh thay ông Nguyễn Đức hạt giữ chức vụ Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.
Ông Nguyễn Bá Thanh là đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá IX, XI và XII.
Phó Ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc
Ông Phan Đình Trạc – Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An vừa được Bộ Chính trị điều động về làm Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương.

Phó Ban nội chính T.Ư Phan Đình Trạc
Phó Ban nội chính T.Ư Phan Đình Trạc.
Ông Phan Đình Trạc sinh ngày 25-8-1958, quê xã Diễn Lộc, huyện Diễn Châu; chuyên môn nghiệp vụ: Đại học An ninh Nhân dân (ngành điều tra tội phạm); Lý luận chính trị: Cử nhân.
Ông Phan Đình Trạc, Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An khoá XVII vào tháng 10-2010, sẽ tiếp nhận trọng trách mới tại Ban Nội chính trung ương.
Chia sẻ về việc được bổ nhiệm làm Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương sau khi Ban này chính thức đi vào hoạt động được một ngày, ông Phan Đình Trạc cười nói: “Không, tôi không bất ngờ về quyết định này của Bộ Chính trị. Là người của Đảng thì luôn sẵn sàng, bảo đi là đi, bảo ở là ở thôi”.
Phó Ban Nội chính Trung ương Phạm Anh Tuấn
Ông Phạm Anh Tuấn - Phó Ban Nội chính Trung ương. Ông Tuấn là tiến sĩ luật.

Phó Ban Nội chính Trung ương Phạm Anh Tuấn
Phó Ban Nội chính Trung ương Phạm Anh Tuấn.
Ông Tuấn nguyên là trưởng Ban Xây dựng pháp luật Văn phòng Chính phủ. Tháng 12-2008, ông Tuấn sang làm phó chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng.
Ban Nội chính Trung ương có 108 cán bộ

Khi ra Trung ương nhận nhiệm vụ, ông Thanh điều động theo 5 cán bộ ở Đà Nẵng, gồm ông Phan Văn Tâm, Bí thư Quận ủy Liên Chiểu; ông Lê Hồng Minh, Chánh văn phòng HĐND TP Đà Nẵng; 2 trợ lý và một lái xe.
Theo Người Lao Động
Theo Ông Phạm Anh Tuấn – Phó Ban Nội chính Trung ương, ngày mai (4-2) là ngày chính thức ra mắt Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và cũng là ngày ra mắt cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng là Ban Nội chính Trung ương. Trong phiên họp đầu tiên, Ban chỉ đạo Trung ương sẽ phân công nhiệm vụ cho các thành viên, xác định những định hướng công tác năm 2013.
Ngày 31-1, đã chuyển 86 cán bộ, nhân viên của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng sang Ban Nội chính Trung ương.
Chiều ngày 1-2, đã chuyển giao 22 cán bộ, công chức của Vụ Nội chính và Vụ Pháp luật thuộc Văn phòng Trung ương Đảng về Ban. Về mặt cơ học, Ban Nội chính Trung ương có 108 cán bộ, công chức không tính lãnh đạo Ban.

Nhiệm vụ của Ban Nội chính Trung ương gồm 6 nhóm:
Thứ nhất là nghiên cứu, đề xuất những quan điểm, định hướng lớn của Đảng về công tác xây dựng pháp luật (trọng tâm là những đề án liên quan đến lĩnh vực nội chính và PCTN); một số chủ trương, chính sách về an ninh quốc gia và PCTN; về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nội chính (được xác định gồm VKS, tòa án, tư pháp và các cơ quan có chức năng tư pháp trong công an, quân đội) và Hội Luật gia VN, Liên đoàn Luật sư VN. Đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban chỉ đạo TƯ về PCTN cho chủ trương, định hướng xử lý một số vụ việc, vụ án.
Thứ hai, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc các cấp ủy, tổ chức đảng trong lĩnh vực nội chính; phối hợp kiểm tra, giám sát hoạt động ở các cơ quan nội chính và hai tổ chức xã hội nghề nghiệp đã đề cập. Phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo, hướng dẫn xử lý một số vụ việc, vụ án được Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban chỉ đạo TƯ ương về PCTN giao.
Thứ ba, thẩm định các đề án về lĩnh vực nội chính và PCTN trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Thứ tư, tham gia ý kiến trong việc bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật với các chức danh thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý trong các cơ quan nội chính theo phân công, phân cấp.
Thứ năm, thực hiện nhiệm vụ cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo TƯ về PCTN.
Thứ sáu, thực hiện một số nhiệm vụ khác do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao.
Nguồn: TiềnPhong

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trong tuyên b sáng ngày 4/2:

 'Ban chỉ đạo chống tham nhũng không ngại lực cản nào....Thành viên Ban chỉ đạo phải là tấm gương về giữ gìn đạo đức lối sống, không bị cám dỗ bởi bất cứ lợi ích nào, không ngại bất cứ lực cản không trong sáng nào"

> 'Cả dân tộc chống tham nhũng thì không sợ trù dập'/ 'Tham nhũng nghiêm trọng, gây bất bình trong xã hội'

Sáng 4/2, dưới sự chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã ra mắt. Ban chỉ đạo do Bộ Chính trị thành lập, chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng trên phạm vi cả nước.
Ông Nguyễn Bá Thanh, Phó trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã trình bày dự kiến phân công nhiệm vụ các thành viên của Ban; dự kiến chương trình công tác năm 2013 và một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp cần quan tâm chỉ đạo, đốc đốc giải quyết. Tại phiên họp, các thành viên Ban Chỉ đạo đã tập trung thảo luận, đóng góp ý kiến về chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban và các thành viên; dự kiến phân công nhiệm vụ các thành viên; chương trình công tác.
Theo Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, phòng, chống tham nhũng là công việc vô cùng hệ trọng, liên quan đến sự bền vững của chế độ, nhưng cực kỳ khó khăn, phức tạp vì liên quan đến lợi ích vật chất, tiền tài, danh vọng, liên quan đến chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, động chạm đến những người có chức, có quyền. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước đã làm nhiều lần, làm quyết liệt nhiều việc, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm và phải làm lâu dài, làm quyết liệt hơn nữa, kiên trì, bền bỉ, không thể nóng vội. Việc thành lập Ban chỉ đạo lần này với mong muốn đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, vừa kế thừa những cái đã có trước, vừa có những điểm mới bổ sung, phát triển.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Ảnh: TTXVN.
Tổng bí thư đã phân tích những điều kiện thuận lợi như: toàn Đảng, toàn dân quyết tâm rất cao; Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, có nghĩa là Bộ Chính trị lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các lĩnh vực, các cấp, các ngành, trong cả hệ thống chính trị. Thành phần Ban Chỉ đạo lần này gồm đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, trong số này nhiều người đã tham gia Ban Chỉ đạo trước đây, có kinh nghiệm công tác. Cơ quan Thường trực là Ban Nội chính Trung ương, do Bộ Chính trị thành lập, trực thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, có vị thế, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rất quan trọng, không chỉ có chống mà cả phòng. Tuy nhiên, hoạt động của Ban cũng đứng trước khó khăn, sức ép rất lớn, phải tạo chuyển biến rõ nét, phải làm tốt hơn trước đây, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.
* 9 nhiệm vụ của Ban chỉ đạo trung ương phòng, chống tham nhũng

Tổng bí thư lưu ý, Ban chỉ đạo cần tổ chức công việc chặt chẽ, làm việc trách nhiệm, không thể tùy tiện. Mỗi thành viên, mỗi cán bộ làm việc trong lĩnh vực này và cả gia đình, vợ, con, phải giữ gìn sự trong sạch mới chống được tham nhũng.
"Tất cả 16 đồng chí thành viên Ban chỉ đạo phải là 16 tấm gương về giữ gìn đạo đức lối sống, không bị cám dỗ bởi bất cứ lợi ích nào, không ngại bất cứ lực cản không trong sáng nào. Chúng ta phải cam kết với nhau, mỗi thành viên Ban chỉ đạo phải là một tấm gương về liêm sáng, trung thực, công tâm, khách quan, nếu không dân không tin", Tổng bí thư nhấn mạnh.

Tổng bí thư yêu cầu Ban Nội chính Trung ương - Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng cần gương mẫu, đi đầu, sớm kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp, bố trí cán bộ theo hướng chất lượng, hiệu quả; xây dựng nội quy, quy chế làm việc rõ ràng. Đối với những vụ án lớn, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng không sa vào xử lý từng vụ án cụ thể, không làm thay chức năng của cơ quan nhà nước; chỉ giám sát việc xử lý các vụ việc; phối hợp với các ngành, các cấp, đôn đốc làm đúng chức năng nhiệm vụ, theo quy định của pháp luật; cho định hướng chỉ đạo đối với một số vụ trọng điểm, phức tạp, để kéo dài, hoặc có ý kiến khác nhau.
Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng gồm 16 thành viên. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban. 5 Phó ban gồm các ông Lê Hồng Anh, Thường trực Ban bí thư; Ngô Văn Dụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Nguyễn Xuân Phúc, Phó thủ tướng Chính phủ; Uông Chu Lưu, Phó Chủ tịch Quốc hội; Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính Trung ương.
Các ủy viên gồm các các ông Tô Huy Rứa, Trưởng ban Tổ chức Trung ương; Đinh Thế Huynh, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an; Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Trương Hòa Bình, Chánh án TAND tối cao; Nguyễn Hòa Bình, Viện trưởng Viện KSND tối cao; Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ; Đinh Tiến Dũng, Tổng Kiểm toán Nhà nước; Vũ Trọng Kim, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Nguyễn Văn Hiện, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
Theo TTXVN

Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Tư liệu...+(1)(*)

(*) Để thuận tiện cho bản thân (và có thể cho bạn đọc) khi cần tìm kiếm ngẫu hứng một vài tư liệu "tạp phế lù"..,  Bách Việt từ nay thử mở Chuyên mục: Tư liệu...+(1)(2)v.v... (các tiểu mục do Bách Việt đặt ra hoặc tô màu để tiện theo dõi)-Bách Việt.

Vì sao Phạm Duy rời Việt Bắc  
Sau khi Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân bế mạc, mọi người ai nấy đã trở về những chiến khu của mình rồi thì “giây phút của sự thật” đã tới với tôi. Trong một buổi trưa có nắng vàng nhẩy múa trên lá cây, thả bước trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rừng Yên Giã, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi… Một hồi lâu, anh Khoát nói, giọng nói thầm thì:
— Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điều kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát Bên Cầu Biên Giới. Và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng phải ở lại. Một mình mày đi thôi. Về suy nghĩ. Mấy hôm nữa, trả lời tao.
Tôi bàng hoàng. Như bị anh bốc-xơ — cỡ võ sĩ Mỹ đen Tyson hiện nay chẳng hạn — vừa “ục” vào đầu mình một cú đấm. Anh Khoát lảo đảo đi về phía trước, lảo đảo là vì anh đi đôi giầy bốt to quá, nặng quá. Tôi cũng lảo đảo như người vừa bị “nốc ao”, quay về ngôi nhà nứa của mình, nằm chắp tay lên bụng, suy nghĩ…
… Khi bước chân lên miền Việt Bắc này, tôi không bao giờ chờ đợi có được những thứ gọi là “đại ân huệ” như thế này cả. Nhất là những ân huệ có điều kiện. Cứ nghĩ rằng mình lên đây để làm việc như một thường dân yêu nước và được tự do sáng tác hay được tự do đi công tác, giống như khi mình còn ở Liên Khu IV. Chỉ cần mình có thêm hai, ba người bạn mới để mình yêu mến như đã yêu mến Nguyễn Sơn, Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh… Chỉ cần có thế thôi. Ai ngờ bây giờ mình lại được đãi ngộ đến thế. Ai ngờ bây giờ mình lại được đẩy vào một guồng máy chặt chẽ để sống cuộc đời của một anh cán bộ chính trị gương mẫu. Trong khi bản tính mình là một con người rất phóng túng. Trong suốt đời tôi, kể từ khi còn bé cho tới nay, tôi sợ nhất là bị đẩy vào kỷ luật. Vào làm đảng viên của một cái Đảng mà kỷ luật chắc chắn phải là thứ kỷ luật sắt, cứ yên chí đi, chỉ cần sau “ba bẩy hai mươi mốt ngày” là tôi sẽ bị đá đít tống ra khỏi đảng liền.
Hơn nữa, tôi ý thức hơn ai hết về giai cấp của mình. Nằm trong ngôi nhà nứa này, tôi tự nói thầm cho tôi nghe, bởi vì khi phải trả lời anh Khoát tôi sẽ không nói văn vẻ như thế này:
— Anh Khoát ơi. Tôi là tiểu tư sản mà. Làm sao tôi có thể tiến thẳng “lên” giai cấp vô sản được? Dù tôi cũng xuất thân là một công nhân, đi khắp mọi nơi ở trong nước để làm các nghề lao động chân tay trước khi sống bằng nghề lao động trí óc (!). Nhưng anh ơi, đó là sau khi tôi đã bị ông anh bắt phải vào học nghề trong trường Kỹ Nghệ Thực Hành, rồi tôi bất mãn, phạm nhiều kỷ luật như đánh nhau, phá phách máy móc ở trường… cho nên tôi bị đuổi ra khỏi trường. Trong bản khai lý lịch cách đây không lâu, tôi đâu có khai tôi là công nhân? Tôi có thể là người có nhiều cảm tình với Cách Mạng nhưng không bao giờ tôi là người học thuộc lòng những bài học, những lý thuyết, những tôn chỉ của Cách mạng cả. Đã có lần tôi trả lời một thằng Cách Mạng nửa mùa, khi nó phê bình tôi là tôi là duy tâm, duy tiếc gì đó, nó nói như một con vẹt vậy. Tôi bèn chỉ tay vào mặt nó: ” Ê mày, nghe đây. Tao không phải là “duy tâm” và cũng chẳng bao giờ là “duy vật” cả. Tao là… “duy cẩn”, Phạm Duy Cẩn. Hiểu không? “ Tại Thanh Hoá, tôi đã có lần khó chịu vì bị phê bình là tiêu cực qua những bài mà tôi vẫn cho là theo đúng chủ trương hiện thực của chính quyền đề ra như Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây, Bà Mẹ Gio Linh. Nhưng khi tôi thấy — qua anh Khoát — Trung Ương bắt tôi phải khai tử bài Bên Cầu Biên Giới, tôi nổi giận chứ không chỉ khó chịu như trước nữa. Tôi thấy họ đặt vấn đề quá nặng. Một bài hát, theo tôi, nếu nó có may mắn được hát lên trong một thời kỳ nào đó thì đời của nó cũng chẳng khác chi một đời hoa, sớm nở tối tàn, có gì đâu mà quan trọng hoá đến độ phải treo cổ nó lên hả? Tôi thấy Cách Mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng Cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự. Bây giờ lại tới chuyện lãnh đạo bắt tôi phải tự tay giết chết một bản nhạc tình tôi vẫn thường coi là tầm thường và còn vớ vẩn nữa là khác. Sự ngu đần trong việc quan trọng hoá một bản nhạc như thế này cũng vẫn còn thấy hiện ra mấy chục năm sau, khi ở Miền Nam có những người lên án bài thơ của một anh lính trong lực lượng Nhẩy Dù do tôi phổ nhạc — bài thơ nhan đề Trả Lời Một Câu Hỏi mà tôi đổi lại là Kỷ Vật Cho Em — cho rằng sự phổ biến của bài hát này đã làm cho quân nhân nản lòng, do đó miền Nam Quốc Gia thua miền Bắc Cộng Sản. Nói như vậy là chấp nhận rằng một bài hát có khả năng để đánh giặc giỏi hơn một đội quân có một triệu lính, với sự giúp đỡ của một nước Đồng Minh có bom nguyên tử à?
Bây giờ tới việc thứ ba là bỏ Thái Hằng ở lại Việt Bắc để đi Moscou. Thái Hằng đã có mang được gần sáu tháng rồi. Đã có lần cả hai vợ chồng tôi đều bị sốt rét, cùng nằm rên khừ khừ trên cái giường nứa ở khu Yên Giã này. Nhưng cũng còn có người ốm này săn sóc cho người ốm kia. (Thái Hằng vừa nhắc lại chuyện tôi… ỉa đùn ở Yên Giã khi bệnh sốt rét đưa tới bệnh kiết lỵ). Cái bệnh sốt rét quái đản mãi hơn mười năm sau mới được đẩy lui khi một Bác Sĩ ở Saigon tìm ra cách chữa rất hiệu nghiệm là tiêm quinine vào mạch máu của chúng tôi. Ngay trước ngày Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân, khi tôi phải đi vắng hai tuần — tôi lên hát ở Đài Phát Thanh bí mật, có gặp lại Thương Huyền tại đó — Thái Hằng nằm một mình ở trong khu rừng già này, nửa đêm có cọp về, vợ tôi vốn là người bị bệnh yếu dây thần kinh từ trước, nay lại sợ cọp tới độ muốn phát điên lên, sáng hôm sau phải tới xin ở tạm nhà chị Nguyễn Xuân Khoát trong khi đợi tôi đi công tác trở về.
Nếu tôi đi ngoại quốc mà Thái Hằng ở lại, vào ngày sinh nở, ai là người sẽ săn sóc người đẻ hộ tôi? Tôi cũng có thể tin rằng Đoàn Thể sẽ làm chuyện đó một cách rất chu đáo, nhưng tôi đã thấy trước mắt chuyện bà Đào Duy Kỳ, vợ của một đảng viên cỡ lớn, ở ngay tại khu Trung Ương này, khi sinh ra đứa con thì phải nuôi một con dê ở trong vườn để có sữa cho con bú. Hình ảnh của người mẹ nghèo thiếu ăn và của đứa con đói sữa trong bài thơ Tâm Sự Đêm Giao Thừa của Hoàng Cầm mà tôi thuộc lòng như cháo, cũng hiện ra trong đầu tôi lúc này…

Lần đầu gặp Bác 
… Trong thời gian chờ đợi tới ngày tôi phải trả lời anh Khoát về một vấn đề tối ư quan trọng có khả năng quyết định cả một đời người, tôi được gọi đi gặp ông Hồ. Đi khoảng gần hai tiếng đồng hồ thì tới chỗ ông ở. Qua khỏi một con suối được đặt tên là Lê Nin thì thấy hiện ra một ngôi nhà sàn b_ăng tre rất đẹp, có ông Chủ Tịch họ Hồ đang ngồi đánh máy. Nhìn thấy U³ông, tôi vẫn thấy cảm động như lúc gặp ông lần đầu. Nhưng vì bây giờ được nhìn ông gần hơn lần trước, tôi thấy cặp mắt của ông thật là sáng, nhưng nó không toát ra một sự trìu mến. Cũng có thể một người làm chính trị suốt đời như ông thì lúc nào cũng cần phải cần phải quyết liệt, phải tàn nhẫn, cho nên ông có một cái nhìn rất dữ.
Tới gặp ông lần này, tôi rất thông minh để thấy ngay rằng đối với ông, lúc đó, tôi chẳng là cái gì cả. Không chừng ông cũng chẳng biết tới tên tôi hay biết tới công việc của tôi là đàng khác. Trong cái bắt tay hay trong câu chuyện, tôi chỉ cảm thấy có một chút thân mật của một người muốn làm cha thiên hạ, ban xuống cho một đứa con dân. Chỉ có thế thôi. Một nhà lãnh đạo như ông Hồ, đang có muôn ngàn chuyện phải làm, đâu có thì giờ để mà đãi ngộ một văn nghệ sĩ? Chẳng qua là vì những vị phụ trách về văn nghệ nghĩ rằng gặp ông Hồ là một ân huệ lớn đối với một công dân và nghệ sĩ như tôi. Trong mọi tính toán như: cho vào Đảng, cho đi Moscou, đề nghị tặng huân chương, còn có thêm một tính toán nữa là cho tôi gặp một người mà ai cũng mong được gặp.
Họ không biết là tôi đã từng được mời tới gặp ông Bảo Đại khi ông vua này đi săn và tới Phan Rang hồi năm 1943. Tôi đang đi hát với gánh Đức Huy ở đó, ông Tỉnh Trưởng là Nguyễn Duy Quang cho xe hơi tới đón tôi đưa vào Dinh Tỉnh Trưởng để đàn hát cho ông vua nghe. Lúc đó tôi mới 22 tuổi. Chỉ có tôi và Bảo Đại ngồi ở trong phòng khách. Ông chăm chú ngồi nghe tôi hát, hỏi thăm gia đình tôi. Gặp ông vua mà cũng chẳng thấy có gì là ghê gớm cả. Ông vua nghe mình hát thì cũng như… ông trọc phú hay ông phu xe — những quý vị khán giả bỏ tiền mua vé vào rạp — nghe mình hát mà thôi. Nhưng phải công nhận rằng ông Bảo Đại là một người rất nhã nhặn, rất thích âm nhạc. Tiếc rằng tôi không nhìn được rõ đôi mắt của ông vì ông luôn luôn đeo kính đen.
Sau này cũng thế, vì anh tôi là Phạm Duy Khiêm đang làm Đại Sứ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi cũng được mời vào Dinh Độc Lập để gập hai anh em lãnh tụ họ Ngô. Cả hai ông đều có những cái nhìn rất dữ và cao ngạo. Đối với hai ông, tôi cũng chỉ có đúng một sự lễ phép vừa phải như khi tôi gặp những lãnh tụ khác. Một thứ lễ phép theo kiểu “kính như viễn chi” vốn là một cách rất hay để thoái thác không nhận một ân huệ hay một món nợ vật chất hay tinh thần nào ở nơi những người có quyền hành này. Sự tương kính đã có giữa hai bên rồi thì không bao giờ tôi dám phê phán các nhà lãnh tụ đó cả, từ ông Bảo Đại, qua ông Hồ Chí Minh tới hai vị lãnh đạo họ Ngô. Đó là công việc của lịch sử.
Nhưng có một điều mà bây giờ tôi mới nhìn thấy khi tôi gặp ông Hồ Chí Minh ở Việt Bắc là: dù đây là một thứ chính quyền Cách Mạng nhưng ở cái nơi chiến khu âm u bí hiểm này cũng có một thứ triều đình rồi — chẳng trách Nguyễn Tuân gọi đây là đất thánh. Triều đình nào cũng phải có kẻ nịnh. Kẻ nịnh bao giờ cũng đông hơn người trung. Lúc tôi tới nơi ông Hồ ở là lúc tôi thấy Tống Ngọc Hạp đem một bầy thiếu nhi tới và tôi chứng kiến một sự “tranh nhau đi gặp Bác Hồ”, một sự cãi nhau om xòm giữa người này người nọ trong sự chọn lựa ai được vào gặp, ai không được vào gặp. Tôi trở về Yên Giã, lòng rất thản nhiên vì bây giờ thì tôi không còn gì để thắc mắc nữa.
Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hoá. Và xin về ngay để cho kịp ngày vợ đẻ, sẽ có bà mẹ vợ săn sóc cho mẹ tròn con vuông. Tôi rất cám ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước thì Tố Hữu tặng cho vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và vãng phí.

Tướng Nguyễn Sơn
Ngày mai lên đường về suôi thì tối hôm đó bỗng nhiên tôi gặp vợ chồng tướng Nguyễn Sơn ở nơi an toàn khu này. Ông mời vợ chồng tôi tới ăn cơm. Trong bữa cơm rất ngon tại một ngôi nhà sàn ở giữa vùng Việt Bắc, dưới ánh đèn dầu leo lắt, ngoài những chuyện xã giao thông thường, ông không nói gì tới chuyện ông đã bị Đảng gửi trả ông về Trung Cộng. Tôi cũng không hé miệng cho ông biết tình trạng và thái độ của tôi trước những ân huệ mà cấp trên đã dành cho tôi. Nhưng khi biết tôi sẽ trở về Khu IV vì lý do Thái Hằng đang có mang thì ông gật gù, ra chiều đồng ý.
Khi tôi về tới Thanh Hoá, tôi mới biết rằng tướng Nguyễn Sơn đã bị thay thế bởi Hoàng Minh Thảo, có Trần Văn Quang làm ủy viên chính trị. Sau này, tôi mới biết rõ nguyên do tại sao ông Sơn lại bỏ kháng chiến để ra đi. Theo người bạn đàn anh của tôi là Hoàng Văn Chí — anh em cột chèo với Nguyễn Sơn — lúc đó đang làm việc tại Khu IV, thì tướng Nguyễn Sơn phản đối việc ông Hồ yêu cầu Trung Cộng viện trợ, cho rằng hễ nhận viện trợ của ngoại bang thì sẽ mất hết chủ quyền. Ông Sơn viện lẽ rằng trong thời kỳ chống Nhật, Mao Trạch Đông không thèm nhờ Nga Sô viện trợ, để mặc Nga Sô tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Theo ông Sơn thì Việt Nam phải tự lực kháng chiến, chiếm lấy vũ khí của Pháp để mà đánh Pháp. Cuộc chiến đấu gian lao hơn nhưng nước mình sẽ không phụ thuộc ngoại bang. Cũng vẫn theo Hoàng Văn Chí, Nguyễn Sơn to tiếng với ông Hồ về việc này và bỏ ra đi ngay sau buổi thảo luận gay go đó, rất có thể ngay trong cái ngày mà tôi được ông mời tới nhà để ăn cơm. Tôi cũng không ngờ rằng đó là bữa cơm từ biệt mà tướng Nguyễn Sơn dành cho một nghệ sĩ trẻ tuổi mà ông hết lòng nâng đỡ không những chỉ trong công tác mà còn trong cả đời tư, khi ông là người se duyên và chủ hôn cho vợ chồng chúng tôi. Không còn Nguyễn Sơn ở Khu IV nữa, rồi đây tôi sẽ thấy mình bơ vơ vô kể.

Vụ án Trần Dụ Châu
Trên đường về, vợ chồng ghé qua một địa điểm ở trong tỉnh Thái Nguyên để gặp anh tôi là Phạm Duy Nhượng hiện đang là giáo viên của trường dạy các cán bộ cao cấp về văn hoá. Việt Minh có cái hay là trong kháng chiến, những người không có trình độ văn hoá cao hoặc có khi chỉ mới có bằng Tiểu Học mà thôi, sau khi đã chiến đấu ở ngoài mặt trận trong một thời gian thì dù có là Sư Đoàn Trưởng,Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng hay Đại Đội Trưởng gì đi nữa thì cũng — a lê — mời các ông quan to súng dài này buông súng ra, bỏ chức vụ đi, lục tục về một ngôi trường được dựng lên ở một nơi giống như “u tì quốc” để học lại từ đầu. Nhà giáo Phạm Duy Nhượng là thầy dạy học văn hoá cho vô số các Tướng Lãnh Cộng Sản về hưu hiện nay ở ngoài Bắc. Sống ở “ù tì quU³ốc” này vài ngày, tôi được nghe một câu chuyện có dính líu tới giới cầm bút, cầm đàn và cầm… dọc tẩu của chúng tôi:
“… Sau khi tan Đại Hội, các văn nghệ sĩ như Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Canh Thân, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Nguyễn Văn Hiếu về tới thị xã đổ nát là Thái Nguyên thì gập Đinh Văn Tỉnh, người có biệt danh là Tỉnh “Chố” vì anh ta có đôi mắt cá vàng, lúc nào cũng như chố mắt ra để nhìn thiên hạ. Tỉnh “Chố” mách nước cho mọi người biết:
— Ơ± một địa điểm gọi là Lăng Tạ, chỗ giáp giới Thái Nguyên-Bắc Giang ấy, các cậu có thể tới ăn hút thả giàn được đó. Tại đây có Lê Sỹ Cửu là đệ tử ruột của Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu. Anh ta sẽ tổ chức một đám cưới cho người em. Họ cũng đang cần “văn nghệ giúp vui”…
Nghe thấy Tỉnh “Chố” mách nước như vậy, các văn nghệ sĩ nhà ta vội vàng kéo nhau tới Lăng Tạ. Đám cưới cực kỳ sang trọng được tổ chức tại ngôi nhà của Lê Sỹ Cửu, nằm trên một ngọn đồi. Ơ± hai bên đường, từ dưới chân đồi lên tới cổng nhà, để soi sáng cho đường đi là hàng ngàn ngọn nến bạch lạp. Cục Quân Nhu là cơ quan có nhân viên và phương tiện để ra vào Hà Nội hằng ngày, mua những đồ tiếp liệu như vải vóc thuốc men, các hàng thuộc loại “xa xỉ phẩm”… trong đó có thuốc lá thơm cho ông Hồ. Lê Sỹ Cửu luôn luôn cưA°ơi một chiếc xe đạp Sterling mà ghi đông là loại thép “dura” có pha chất “aluminium”. Xe đạp thời kháng chiến mà có được một cái đèn hiệu RADIUS để đi ban đêm là đã sang trọng lắm rồi. Xe đạp của Lê Sỹ Cửu có tới hai cái đèn, đèn nào cũng to như đèn pha xe hơi cơ. Hằng ngày Lê Sỹ Cửu là một người tiêu tiền như rác. Số tiền đổ vào đám cưới này chắc chắn là phải kinh khủng lắm. Người ta kể lại là về phần ăn thì sau khi nhà bếp làm thịt, những lông gà, lông vịt đổ xuống sông trôi lềnh bềnh đến mấy ngày mà vẫn chưa hết. Và cũng không thiếu một thứ rượu ngon nào trong bữa tiệc cưới này. Thuốc lá thơm như Philip Morris, Cotab, Camel, 3 con 5… đem ra mời khách hút, không phải từng điếu mà là từng bao. Ăn uống no say xong là có luôn dăm ba cái bàn đèn thuốc phiện để đãi khách. Lẽ tất nhiên Trần Dụ Châu là thượng khách đám cưới.
Thực ra, cái đám cưới cực kỳ hoang phí được tổ chức trên xương máu của nhân dân này cũng chẳng có ai biết đến, ngoài những người tới dự đám cưới. Cũng chẳng có ai bận tâm đi báo cáo ai cả. Vả lại, Cục Trưởng Cục Quân Nhu đã là nhân viên cấp cao nhất ở đây rồi. Hơn nữa, Trần Dụ Châu là người rất hào hiệp đối với bạn bè và các đàn em. Có người bạn nào ở xa tới thăm anh là anh tặng luôn cho người đó một bộ đồ kaki Mỹ. Cho nên nếu anh có để cho đàn em của anh làm chuyện hoang phí như thế này thì cũng không có ai nỡ trách móc anh làm gì. Chẳng may trong đám cưới này lại có Đoàn Phú Tứ.

Trong bữa ăn, có lẽ đã quá say — hay giả vờ say không chừng — Đoàn Phú Tứ nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu, lên tiếng phê bình sự hoang phí này. Lê Sỹ Cửu vội vàng chạy tới, nắm cổ Đoàn Phú Tứ kéo đi. Và để lấy lòng “xếp” của mình, anh ta giơ tay tát Đoàn Phú Tứ. Thế là chuyện này bùng nổ. Đoàn Phú Tứ lập tức báo cáo lên Trung Ương, đưa ra những tội của Trần Dụ Châu như: bao che cho đàn em phung phí công quỹ, tổ chức đám cưới vô cùng phí phạm trong khi chính phủ đang bắt cả nước phải hi sinh, có thái độ hung hãn với văn nghệ sĩ khi bị phê bình thẳng thắn. Câu chuyện lan tràn đi khắp mọi nơi. Ai cũng xì xào. Nếu người tố cáo không phải là Đoàn Phú Tứ thì chuyện này cũng có thể được lấp liếm đi, nhưng lúc đó người ta rất cần tới văn nghệ sĩ để động viên quần chúng cho nên Trung Ương đã không thể làm ngơ được. Kết quả, Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu bị đưa ra xử án trước công chúng vào ngày mùng 5 tháng 9 năm 1950, có Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh A³n và có Trần Tử Bình đại diện của Chủ Tịch họ Hồ tới dự để cho phiên toà thêm phần long trọng. Trần Dụ Châu bị kết án tử hình và bị đem ra xử bắn tại sân vận động Thái Nguyên…”

Tôi biết sơ sơ là cô bạn ca sĩ Thương Huyền dễ thương và hát hay của tôi trong những ngày xa xưa, khi ra với kháng chiến thì cô trở thành người bạn tình hay người vợ chưa cưới của Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu. Tôi cũng vừa mới gặp nàng ở Đài Phát Thanh bí mật một tháng trước đây. Lúc đó nàng đang ngồi trong phòng vi âm, tay cầm cái quạt nan để đuổi một lũ ruồi đang bu vào một vài nốt ghẻ ở nơi đôi chân thon đẹp của nàng, những nốt ghẻ mà ai đã đi kháng chiến thì cũng đều được thiên nhiên ô nhiễm âu yếm tặng cho. Rất niềm nở, Thương Huyền hỏi thăm tôi về Thái Hằng. Còn về phần tôi, vì mắc bệnh “tế nhị” cho nên tôi không dám thăm hỏi gì về đời tư của nàng cả. Nay biết chuyện Cục Trưởng Trần Dụ Châu gặp nạn, tôi nghĩ tới Thương Huyền rất nhiều. Từ giã trường dạy văn hoá và anh Nhượng, chúng tôi ra đi. Trong hành trình trở về Khu IV, trên một quãng đường nào đó, tôi chúc thầm cho người bạn cũ có một nụ cười rất phúc hậu qua khỏi được tất cả những khó khăn của cuộc đời. Rồi từ đó, tôi quên Thương Huyền.

Nguồn  HỐI KÝ PHẠM DUY/ chương 33
Theo: Daohieu


*****

Tìm kiếm Blog này