Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Khi ngành nào cũng tự hào lớn mạnh

Nhân ngày thành lập Ủy ban Kiểm tra trung ương (của Đảng)-16/10/1948-16/10/2013, các vị lãnh đạo và  phương tiện thông tin đại chúng đồng loạt ca ngợi sự "trưởng thành vượt bậc" về số lượng và chất lượng của ngành Kiểm tra. Mới nghe thật phấn khởi, nhất là người trong ngành rất đỗi tự hào. Sao không (?), nếu biết khi mới thành lập chỉ có 3 biên chế đến nay đã có hơn 6.000 cán bộ chuyên trách từ cấp quận, huyện trở lên và hơn 65.000 cán bộ kiểm tra kiêm chức, tức là tăng hơn chục vạn lần. Nội dung công việc tất nhiên là rất lớn, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu... vì tình trạng sai phạm ngày càng nhiều và nghiêm trong hơn bởi chính đội ngũ công chức ngày càng phình to.

 
Trên đây là một trong hàng vạn trường hợp cho thấy cách nhìn và đánh giá vế sự "lớn mạnh" vốn rất phổ biến ở nước ta.  Phải chăng đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất khả thi (nếu không nói là "bất lực") trong cái gọi là "cải cách hành chính" tại đất nước này? Ca ngợi và tự hào như thế có khác nào khuyến khích việc tăng cường biên chế vô tội vạ bất chấp tình trạng mất cân đối nghiêm trọng cơ cấu dân số và ngân sách quốc gia ( Được biết Việt Nam hiện có gần 90 triệu dân nhưng có tới 25 triệu người "làm công ăn lương" nếu kể các công ty nhà nước và lực lượng vũ trang). Có lẽ chỉ Việt Nam mới  2 bộ máy với đầy đủ các cơ quan, ban ngành ngang dọc, đó là Đảng và Nhà nước. Trong khi đại đa số nước trên thế giới chỉ có 1 nguyên thủ quốc gia thì Việt Nam có tới 4 vị cùng tương đương "nguyên thủ quốc gia", đó là là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội, tạo thành một "cơ chế" chồng chéo rườm rà kém hiệu quả. Vị nào cũng có quyền ký kết các văn kiện hợp tác với nước ngoài nhưng phần thực hiện là "của chung". Khi đi thăm nước ngoài vị nào cũng sử dụng chuyên cơ với đoàn tùy tùng hùng hậu; khi đón một nguyên thủ nước ngoài thì cả bốn vị đều tham gia như kiểu "bốn chọi một"...!

Thử nhẩm tính xem cần bao nhiêu tiền và lấy đâu ra cho đủ để trả lương cho đội ngũ công chức đông đảo như vậy(?)  Và cũng rất khó mỗi khi ngồi lại bàn xem nên "cắt giảm" ai, vị trí chức vụ nào, v.v.... Có lẽ đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhùng nhằng tắc tị của chủ trương cắt giảm biên chế đã có từ ngót nửa thế kỷ nay; càng hô hào cắt giảm thì nó càng phình to./.               

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Việt Nam được mất gì từ quan hệ với Trung Quốc?

http://sohanews2.vcmedia.vn/zoom/476_312/2013/14f83fdce4fb26.img-d6f1c.jpgThủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường sẽ đến Việt Nam ngày 13/10 trong một chuyến thăm chính thức cấp cao nhất kể từ cuộc chiến tranh biên giới 1979. Sự trùng hợp ngẫu nhiên của chuyến thăm vào thời gian quốc tang của vị Tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp, biểu tượng cuối cùng của thế hệ chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam khiến người ta liên tưởng đến một điềm báo trong quan hệ Việt-Trung. Sự trùng hợp này có thể gây ra một vài khó khăn trong việc thu xếp nghi thức sao cho phù hợp và tránh gây hiểu nhầm, nhưng là một thời điểm chín mùi để người Việt Nam nhìn lại quá trình đã qua và định hình mối quan hệ với nước lớn láng giềng phương Bắc trong tương lại. Bài viết ngắn này không có tham vọng trình bày cặn kẻ toàn bộ chủ đề rộng lớn này mà chỉ đề cập một khía cạnh thiết thực: Việt Nam được-mất gì từ quan hệ với Trung Quốc?



Quan hệ truyền thống bất bình đẳng 
Nhiều người coi sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam đã hoàn thành bằng việc đánh đuổi thực dân Pháp và can thiệp Mĩ. Nhưng thực ra đó chỉ là một giai đoạn của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc vẫn chưa hoàn thành kể từ thời kỳ "nghìn năm Bắc thuộc". Lập luận này không phải là vô lý, nhất là nếu biết rằng đó là cách hiểu phổ biến của  người Trung Quốc, điển hình là Giáo sư-tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh khi ông này hùng hồn tuyên bố trước Hội thảo quốc tế về Biển Đông tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2010:  “Cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Và ông ta sử dung luận điểm này để biện minh cho đường ranh giới dứt đoạn hình lưỡi bò bao trọn 80% diện tích Biển không khác nào một hàng rào thô sơ dựng lên bởi một lão địa chủ tham lam trong sân nhà người hàng xóm! Điều trớ trêu là đường lưỡi bò này vừa được Bắc Kinh lôi ra từ sọt rác tư liệu vốn chỉ là một đường chấm phá ngẫu hứng của một viên sĩ quan thời Tưởng Giới Thạch. Rõ ràng cách hiểu này cho thấy vì sao Bắc Kinh đã rất sẵn sàng hậu thuẫn Việt Nam chống Pháp, Nhật, Mĩ và cả Nga. Đó cũng là lý do tại sao sau chiến thắng 1975 và thống nhất đất nước, Việt Nam đã bị chính người đồng chí phương Bắc tấn công từ biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc, từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Nếu không vì ảo vọng khôi phục bá quyền thì Bắc kinh đã không hành động như vậy!

Về phần mình, người Việt Nam tự hào đã đánh bại thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mĩ, coi đó là hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tổng Bí thư Lê Duẩn từng đánh giá (đại ý): Từ nay không kẻ nào dám đánh Việt Nam nữa! Nhưng nhận định đó đã mau chóng cho thấy là hảo huyền trước một nước lớn láng giềng phương Bắc luôn lăm le phục dựng vị thế Vương triều đã có trước thời Pháp thuộc. Đó là nội sâu xa của bài học mà nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã muốn "dạy" người Viêt Nam.

Tóm lai, có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để nói rằng, không chỉ thời Vương triều mà thời Xã hội chủ nghĩa, người Trung Quốc vẫn tiếp tục coi Việt Nam là phiên thuộc, và rõ ràng có sự khác nhau trong cách hiểu về chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ giữa người Việt Nam và người Trung Quốc. Do sự khác biệt này, rất khó (nếu không nói là không thể) để có quan hệ bình thường giữa hai quốc gia dân tộc này. Nó không  giống quan hệ Mỹ - Mêhicô, cũng không giống quan hệ Mỹ-Cu Ba....mà là một loại quan hệ gượng ép, trong đó phía Việt Nam dù luôn cố tỏ ra khiêm nhường theo kiểu "tránh voi chẳng xấu mặt nào" nhưng  phía Trung Quốc bao giờ cũng muốn áp đặt và khuất phục.     

Quan hệ là cần thiết nhưng thân thiết thì không!     
Vẫn biết do thế đất trời và do truyền thống lâu đời, người Việt Nam không thể không giao hữu với láng giềng phương Bắc. Nhưng đó là quan hệ để tồn tại chứ không phải để phát triển . Người Việt có câu ngạn ngữ mang tính thực dụng: "Bán anh em xa, mua láng giềng gần" đồng thời cũng có nhận xét bỗ bã nhưng thâm thúy: "Xa thơm, gần thối". Nó hợp thành một thứ triết lý sống của họ trong ứng xử không chỉ ởquy mô làng xã và quốc gia mà cả trên quy mô quốc tế, đặc biệt với nước lớn láng giềng phương Bắc từ bao đời nay. Mặt khác, các chí sĩ thuộc nhiều thế hệ người Việt vẫn luôn đau đáu tìm lối thoát qua các phong trào như Duy tân, Đông kinh nghĩa thục hay "thoát Á" và hiện nay là phương châm "Làm bạn với tất cả".
Giờ đây sau khi đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, người Việt Nam chợt nhận ra rằng nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ vẫn tiếp tục bị đe dọa bởi "nước ngoài" (một cách diễn đạt mơ hồ vì lý do tâm lý và chính trị) dù ai cũng biết nó đến từ phương Bắc. Đây thực sự là một nghịch lý đối với bản thân người Việt Nam chừng nào họ vẫn tin rằng thế núi liền núi sông liền sông buộc mối quan hệ Việt-Trung muôn đời không thể khác. Đồng thời, trãi qua "nghìn năm Bắc thuộc" và "trăm năm Pháp thuộc" cho thấy không có sự lệ thuộc ngoại bang nào là tốt cả,  nhưng trong thời kỳ 100 năm Pháp thuộc bờ cõi đất nước được giữ vững từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Về cơ hội phát triển cũng thấy hiện tượng tương tự, đó là các cơ sở hạ tầng và công-thương nghiệp (dù hạn chế do "cách bóc lột bủn xỉn" của người Pháp) vẫn tạo nên sự khác biệt so với thời Vương triều. Thực tế cũng cho thấy viện trợ từ Trung Quốc chỉ giúp miền Bắc tiến hành chiến tranh nhưng không giúp phát triển. Nền kinh tế Việt Nam chỉ thực sự khởi sắc sau khi bị Trung Quốc cắt viện trợ. Từ khi hai nước "bình thường hóa quan hệ" lại xuất hiện tình trạng trì trệ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ và khoa học-kĩ thuật, vì Trung Quốc toàn đưa sang những máy móc, trang thiết bị lạc hậu cùng các thủ đoạn kiềm chế vốn có của họ. Dự án khai thác bauxit Tây Nguyên và hàng loạt các công trình nhiệt điện, khai thác tài nguyên khoáng sản, v.v... là những ví dụ. Sự tràn ngập hàng hóa thứ cấp rẽ tiền và hàng có độc tố xuyên qua biên giới đang thực sự đe dọa nền kinh tế Việt Nam. Trong cơn sốt vốn đầu tư hiện nay, không loại trừ khả năng một ngày kia nhà máy, hầm mỏ, ruộng đồng, rừng, biển sẽ rơi vào tay các ông chủ  Trung Quốc.

Đã đến lúc để giới lãnh đạo chính trị và giới doanh nhân Việt Nam cần tỉnh táo nhận ra nguy cơ càng xích gần với Trung Quốc sẽ càng hạn chế cơ hội tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Về điểm này Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á nhờ biết giữ khoản cách cần thiết với Trung Quốc đã  có thể phát triển vượt trội và làm nên những kỳ tích chỉ trong thời gian trên dưới 30 năm. Trong khi đó Việt Nam đã để tuột mất hết cơ hội này sang cơ hội khác trong hơn 40 năm qua do lấn bấn không thể thoát khỏi vòng cương tỏa của ông bạn lớn.  Tuy nhiên, cơ hội vẫn còn đó khi Trung Quốc dù được coi là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới nhưng còn lâu để thực sự thoát khỏi tình trạng lạc hậu và nghèo đói.   
                    
Đừng sập bẩy "chia để trị"!
Xin quay lại với chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường. Việt Nam là điểm dừng chân cuối cùng trong hàng loạt chuyến công du mới đây của các nhà lãnh đạo Trung Quốc thay nhau đến các nước ASEAN. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh tình hình tranh chấp Biển Đông có những diễn biến bất thường, đặc biệt nền kinh tế Mĩ rơi sâu vào khủng hoảng  khiến nội bộ chia rẽ và Chính phủ Liên bang hết tiền tiêu(!) đến nỗi Tổng thống Obama không thể tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAC) và Hội nghị cấp cao APEC 21. Đó là một cơ hội hiếm có  đối với Bắc Kinh để phát huy vai trò nước lớn tại các diễn đàn khu vực và không bị thúc bách trong vấn đề giải pháp Biển Đông. Với khả năng tài chính dồi dào hơn Mĩ, Bắc Kinh giờ đây có thể tung ra để "mua" các đối tác khu vực  nhằm thực hiện ý đồ chia để trị trong nội bộ khối ASEAN, cụ thể vừa đạt được những thỏa thuân chưa từng có trước đây với Indonessia (trong đó có hiệp định đánh cá xuyên Biển Đông), ký đối tác chiến lược với Malaysia, tăng cường quan hệ toàn diện với Thái Lan, Singapore, Brunai, Mianma) Có thể nói đến nay hầu hết các nước thành viên ASEAN đã được "tranh thủ", riêng Campuchia đã bị khống chế, bởi Bắc Kinh,  chỉ còn  Philipin và Việt Nam là hai nạn nhân phải chật vật tìm cách riêng của mỗi nước để đối phó với kẻ thù chung. Điều này có nghĩa Bắc Kinh đã cơ bản hoàn thành âm mưu chia rẽ khối ASEAN - một việc mà cách đây vài năm tưởng còn rất xa vời. Trong khi đó cái gọi là "chủ trương xoay trục" của Mĩ thực tế bị gián đoạn, nếu không nói là "đánh trống bỏ dùi".

Trong bối cảnh nêu trên, không khó để dự đoán sứ mệnh của chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường là nhằm hoàn thiện chiến dịch chia để trị theo kịch bản đã hình thành rõ nét từ chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Việt Nam và được trình diễn màn đầu tiên bằng việc giảm cường độ lấn chiếm trên biển khiến nhiều người nhầm tưởng đó là sự đáp lại trước thái độ khiêm nhường của giới lãnh đạo Việt Nam. Nói cách khác, Bắc Kinh đang chủ động thực hiện kịch bản mà họ đã dàn dựng nhằm kéo dài thời gian chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho mục tiêu lợi ích cốt lõi là độc chiếm Biển Đông. Trong kịch bản này Việt Nam dù giữa vị thế một vai diễn chính nhưng phải diễn như một vai phụ. Đó là điều Bắc Kinh mong muốn. Về quan hệ song phương thuần túy, chưa biết khách mang theo những gì trong hầu bao, nhưng chắc chắn mục đích chính sẽ nhằm "nắn dòng" và đưa Việt Nam hoàn toàn trở lại trong vòng kim cô của Trung Quốc. Chắc chắn những lời hay ý đẹp sẽ được nhắc đến nhiều hơn, nhưng tâm địa thì vẫn chưa thay đổi đâu.

 Xem ra chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường mang đến cho Việt Nam nhiều điềm xấu hơn là điềm tốt, và đó là một phép thử nữa đối với giới lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may, hy vọng rằng sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang đánh thức tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của toàn dân tộc trước vận nước. Và điều này nhắc nhỡ giới lãnh đạo và doanh nhân đề cao cảnh giác và tỉnh táo hơn chăng?    




Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Lời bình nhân cái chết (*) của Tướng Giáp

Có thể nói Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là một trong số ít vĩ nhân được ca ngợi với rất ít tranh cãi không chỉ tại Việt Nam  mà cả trên thế giới. Quả vậy, Ông là một vĩ nhân thực thụ, không chỉ lúc sinh thời mà đến lúc qua đời vẫn tỏa sáng. Sự vĩ đại này không phải bất cứ vĩ nhân nào cũng có nếu thấy rằng không ít những vĩ nhân vừa có công vừa có tội và cũng không ít người tự mình hoặc bị người khác hủy hoại thanh danh vào giai đoạn cuối đời.


Bác Hồ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Tướng Giáp chụp với  Cụ Hồ năm 1962 (ảnh tư liệu)
Thiết nghĩ không cần nhắc lại về những lời ngợi ca mà thế giới dành cho con người vĩ đại này. Chỉ xin đề cập đến một khía cạnh mà có lẽ nhiều người quan tâm theo dõi, đó là nơi an nghỉ cuối cùng của Đại tướng. 

Theo một thông báo chính thức mới công bố, ý nguyện của Đại tướng và gia đình là được chôn cất tại quê nhà Quảng Bình (địa điểm cụ thể chưa thấy nói). Nếu đúng vậy thì đó là một ý nguyện sáng suốt, nhất là xét trong bối cảnh Việt Nam ngày nay đang rất thịnh hành trào lưu quan cách và người ta ra sức "phấn đấu" để được chôn tại Nghĩa trang Mai Dịch.... Xét trong bối cảnh đó thì đây là một chỉ dấu nữa cho thấy tầm vĩ nhân của Tướng Giáp. 

Vào lúc này hãy còn sớm để đánh giá toàn bộ về vấn đề này, nhưng có một điều chắc chắn là việc an táng Đại tướng tại quê nhà sẽ đem lại luồng sinh khí mới cho vùng quê nơi đã sinh ra vị tướng lĩnh tài ba, và đó là ý nghĩa nhân văn to lớn chỉ có ở một người lúc sinh thời được đồng đội gọi thân mật là "Anh Văn". Hy vọng rằng người dân  Lệ Thủy, Quảng Bình và cả dãy đất miền Trung xa xôi nghèo khó sẽ được thụ hưởng những lợi ích từ cái chết của Ông mang lại, không chỉ bây giờ mà cho nhiều đời sau, trong đó hiệu ứng trực tiếp là sự khích lệ tinh thần đối với dân chúng đồng thời tạo ra một "thương hiệu" khai thác tiềm năng du lịch và phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Bình và miền Trung nói chung. Hy vọng rằng cái chết của Đại tướng sẽ giúp hồi sinh vùng đất nơi đây. Đó là giá trị vô giá so với việc chôn Ông tại Nghĩa trang Mai Dịch.             

Nhân sự kiện này,  không khỏi nuối tiếc cho trường hợp Cụ Hồ đã không được thực hiện theo mong muốn cuối cùng mà Người đã cẩn  trọng ghi trong Di chúc, đại ý là chớ nên điếu phúng linh đình tốn kém tiền bạc, mà đem hỏa táng rồi chôn trên một quả đồi gần Tam Đảo, tại đó trồng nhiều cây xanh thành rừng có lợi cho phong cảnh và nông nghiệp. Người còn dặn "Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam". Tiếc thay giới lãnh đạo kế tiếp nói quá nhiều về "tầm nhìn vi mô, vĩ mô" nhưng không thấy một điều đơn giản như vậy! Phải chăng Tướng Giáp-người học trò trung thành-đang thực hiện ý nguyện của Cụ Hồ? Mong thay giới lãnh đạo đất nước ngày nay học những điều thiết thực từ thế hệ Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp, biết đâu rồi đây nhiều vị đang trù tính chọn cho mình một nơi an nghỉ cuối cùng tại quê hương bổn quán cũng nên (?)   

(*) Người viết có ý dùng từ "chết" để nhấn mạnh ý nghĩa của sự sống và cái chết.  

  

Tìm kiếm Blog này