Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012

Đầu năm Rồng: Food for thought


14829
8381
/2011-06-20-nhung-gia-thuyet-ngay-tho
Thác Bản Giốc
Giới thiệu của chủ blog: Người Việt Nam nào mà chẳng mong đất nước mình sánh vai với các cường quốc năm châu. Nhưng hình như cái gì mong mõi thì thường lâu đến? Nhiều nhà kinh tế VN thường giải thích lý do vì sao chưa đến bằng cụm từ " phát triển chưa tương xứng với tiềm năng". Nhưng tiềm năng là gì? chúng cần được khai thác thế nào ...; và quan trong hơn làn guyên nhân nào khiến chúng chưa được phát huy? Để góp thêm một cách nhìn bên ngoài khách quan xin trích đăng lại đây một bài viết cách nay 1/2 năm của tác giả Tiến sĩ Alan Phan- Chủ tịch Quỹ Đầu tư VIASA làm tài liệu tham khảo.
 Những giả thuyết ngây thơ
Các nhà đầu tư thế giới thường nghĩ về Việt Nam như một quốc gia trẻ trung, đang lên và chứa nhiều tiềm năng nhất trong số các thị trường mới nổi. Họ ấn tượng với con số tăng trưởng về dân số, về sự kiện là 58% người VN dưới tuổi 25, và theo nhãn quan của người Âu Mỹ, đây là phân khúc sáng tạo và cầu tiến nhất của bất cứ xã hội nào. Họ tìm đến VN mong những đột phá kỳ diệu và một vận hành năng động kiểu thung lũng Silicon (trung tâm IT của Mỹ ở phía nam San Francisco). Sau vài năm tung tiền mua tiềm năng và cơ hội, họ thường thất vọng và âm thầm bỏ đi. Tại sao?
Họ đã không lầm về những số liệu tạo nên hình ảnh đó. Tuy nhiên, sự phân tích và biện giải về logic của họ vướng phải vài giả thuyết và tiền đề không chính xác. Một người có số tuổi còn trẻ không có nghĩa là sự suy nghĩ và vận hành của người đó cũng phải trẻ trung như số tuổi, nhất là khi họ lớn lên trong một xã hội khép kín, ít tiếp xúc với thế giới.
Tôi còn nhớ một đai gia IT nổi tiếng cũng đã từng kết luân trong một buổi hội thảo về kinh tế là số người sử dụng điện thoại di động ở VN đã tăng trưởng ấn tượng 36% mỗi năm trong 5 năm qua và lên đến 68 triệu người hay khoảng 80% dân số. Kết luận của anh chuyên gia trẻ này là tương lai về công nghệ thông tin của VN phải sáng ngời và sẽ vượt trội các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines...
Đây là những kết luận ngây thơ về thực tại của xã hội. Một người trẻ suốt ngày la cà quán cà phê hay quán nhậu sẽ không đóng góp gì về sáng tạo hay năng động; cũng như vài ba anh chị nông dân với điện thoai cầm tay không thay đổi gì về cục diện của nông thôn ngày nay (nông dân vẫn chiếm đến 64% của dân số xứ này).
Tôi thích câu nói (không biết của ai): Tất cả bắt đầu bằng suy nghĩ (tư duy). Suy nghĩ tạo nên hành động, hành động liên tục biến thành thói quen và thói quen tạo nên định mệnh. Định mệnh của cá nhân phát sinh từ tư duy cá nhân, định mệnh tập thể đúc kết bởi suy nghĩ của tập thể.
Tư duy, thói quen và định mệnh
Quên đi góc nhìn cá nhân, hãy tự suy nghĩ về tư duy thời thượng của xã hội này và từ đó, ta có thể nhận thức được những hành xử và thói quen của người dân VN. Bắt đầu từ tầng cấp lãnh đạo về kinh tế, giáo dục và xã hội đến lớp người dân kém may mắn đang bị cơn lũ của thời thế cuốn trôi; tôi không nghĩ là một ai có thể lạc quan và thỏa mãn với sự khám phá.

Những thói quen xấu về chụp giựt, tham lam, mánh mung, dối trá, liều lĩnh, sĩ diện... vẫn nhiều gấp chục lần các hành xử đạo đức, cẩn trọng, trách nhiệm, danh dự và hy sinh. Dĩ nhiên, đây là một nhận định chủ quan, sau một lục lọi rất phiến diện trên báo chí, truyền hình và diễn đàn Internet. Nhưng tôi nghĩ là rất nhiều người VN sẽ đồng ý với nhận định này.
Tôi nghĩ lý do chính yếu của những thói quen tệ hại này là bắt nguồn từ một tư duy già cỗi, nông cạn và nhiều mặc cảm. Tôi có cảm giác là ngay cả những bạn trẻ doanh nhân và sinh viên mà tôi thường tiếp xúc vẫn còn sống trong một thời đại cách đây 100 năm, dưới thời Pháp thuộc. Thực tình, nhiều bậc trí giả đã lo ngại là so với thời cũ, chúng ta đã đi thụt lùi về đạo đức xã hội và hành xử văn minh.
Tôi thường khuyên các bạn trẻ hãy đọc lại những tiểu thuyết của thời Pháp thuộc trước 1945. Họ sẽ thấy đời sống và các vấn nạn của một nông dân trong truyện của Sơn Nam vẫn không khác gì mấy so với một nông dân qua lời kể của Nguyễn Ngọc Tư. Bâng khuâng và thách thức của những gia đình trung lưu qua các câu chuyên của Khái Hưng rất gần gũi với những mẫu chuyện ngắn của nhiều tác giả trẻ hiện nay. Ngay cả những tên trọc phú, cơ hội và láu lỉnh trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng cũng mang đậm nét hình ảnh của những Xuân Tóc Đỏ ngày nay trong xã hội.
Ôm lấy quá khứ ở thế kỷ 21
Tóm lại, tôi có cảm tưởng chúng ta vẫn sống và vẫn tranh đấu, suy nghĩ trong môi trường cả 100 năm trước. Những mặc cảm thua kém với các ông chủ da trắng vẫn ám ảnh các bạn trẻ ngày nay. Trong lãnh vực kinh doanh, phần lớn các doanh nhân vẫn cho rằng bất động sản và khoáng sản là căn bản của mọi tài sản. Sản xuất gia công và chế biến nông sản vẫn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Một doanh nhân Trung Quốc đã mỉa mai với tôi khi đến thăm một khu công nghiệp của VN, "Họ đang cố học và làm những gì chúng tôi đang muốn quên".

Tôi đang ở tuổi 66. May mắn cho tôi, nền kinh tế toàn cầu đã thay đổi khác hẳn thời Pháp thuộc. Tôi không cần phải dùng tay chân để lao động, cạnh tranh với tuổi trẻ. Kinh doanh bây giờ đòi hỏi một sáng tạo chỉ đến từ trí tuệ và tư duy đổi mới. Thân thể tôi dù bị hao mòn (xương khớp lỏng lẻo, tai mắt nhấp nhem..). nhưng trí óc tôi và tinh thần vẫn trẻ hơn bao giờ hết. Thêm vào đó, nó không bị phân tâm bởi những hóc môn (hormones) về đàn bà hay những thứ lăng nhăng khác như các bạn trẻ. Do đó, hiệu năng và công suất của sự suy nghĩ trở nên bén nhậy hơn.
Người Mỹ có câu, "Những con chó già không bao giờ thay đổi" (old dogs never change). Do đó, tôi thường không thích trò chuyện với những người trên 40, nhất là những đại trí giả. Nhưng tôi thất vọng vô cùng khi về lại VN và gặp toàn những ông cụ non mới trên 20 tuổi đời: Nhút nhát, cầu an, thụ động, chỉ biết ăn nhậu, và đua đòi theo thời thế. Họ sống như các ông già đã về hưu, họ nói năng như một con vẹt, lập đi lập lại những giáo điều, khẩu hiệu đã hiện diện hơn trăm năm. Họ làm việc như một con ngựa bị bịt kín đôi mắt để chỉ nhìn thấy con đường một chiều trước mắt.
Nhiều người đỗ lỗi cho những thế hệ trứơc và văn hóa gia đình đã kềm kẹp và làm cho thế hệ trẻ này hay ỷ lại và hư hỏng. Cha mẹ vẫn giữ thói quen sắp đặt và quyết định cho các con đã trưởng thành (ngay khi chúng vào tuổi 30, 40..) về những cuộc hôn nhân, công việc làm, ngay cả nhà cửa và cách sinh họat. Hậu quả là một thế hệ đáng lẽ phải tự lập và lo tạo tương lai cho mình theo ý thích lại cúi đầu nghe và làm theo những tư duy đã lỗi thời và tụt hậu.
Trong khi thế giới đang hồi sinh với thế hệ trẻ tự tin tràn đầy năng lực cho những thử thách của thế kỷ 21, thì người trẻ VN đang lần mò trong bóng tối của quá khứ. Tôi tự hỏi, sao quê hương mình ... già nua nhanh như vậy? Những nhiệt huyết đam mê của tuổi thanh niên bây giờ chỉ dành cho những trận đá bóng của Châu Âu? Tôi nhìn vào những nghèo khó của dân mình so với láng giềng chỉ là một tình trạng tạm thời. Nhưng tôi lo cho cái tư duy già cỗi của tuổi trẻ sẽ giữ chân VN thêm nhiều thập niên nữa. Cái bẫy thu nhập trung bình to lớn và khó khăn hơn mọi ước tính.
·         T/S Alan Phan là Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa tại Hong Kong và Shanghai. Du học Mỹ từ năm 1963, ông đã làm việc tại nhiều công ty đa quốc gia ở Wall Street và phát triển công ty Hartcourt của mình thành một tập đoàn niêm yết trên sàn Mỹ với thị giá hơn 700 triệu dollars. Ông sống và làm việc tại Trung Quốc từ 1999. T/S Phan tốt nghiệp BS tại Penn State (Mỹ), MBA tại American Intercontinental (Mỹ), Ph.D tại Sussex (Anh) và DBA tại Southern Cross (Úc). Email của ông là aphan@asiamail.com và Web site cá nhân là www.gocnhinalan.com.

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

Thế nào là trí thức?


Ngày Tết nhớ làng tôi xanh bóng tre
Trưa chiều 30 Tết nhàn nhã...Ở nhà không có việc gì  làm, ra phố thấy vắng hẳn xe cộ chỉ lác đác vài ba chiếc xe lăn bánh nhẹ nhàng, hai bên phố những căn nhà đóng cửa với hè phố thênh thang chỉ vài ba người thảnh thơi dạo bộ... Trời không mưa không gió  trong cái se lạnh của mùa đông...  Tất cả tạo nên một sự yên tĩnh không nhàm chán. Ước gì ngày nào cũng được thế này!
Định bụng sẽ không blog bliếc gì trong mấy ngày Tết để thưởng thức không khí thanh bình hiếm hoi của Thủ đô . Nhưng không hiểu sao lại  quay vào nhà ngồi trước máy tính...Rồi thấy Quêchoa với dòng tít "Gửi Ngô Bảo Châu" không có từ Giáo sư là lạ ... (Xem tại http://quechoa.info/2012/01/22/g%e1%bb%adi-ngo-b%e1%ba%a3o-chau/)
Tò mò vào đọc tiếp thì thấy bàn về chuyện Giáo sư Ngô Bảo Châu trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ, trong đó có câu   "...Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội..Tiếp dưới là những ý kiến phản biện của nhiều người. Nếu tôi không nhầm thì đây là lần đầu tiên vị giáo sư này bị người hâm mộ phản bác (?). Nội dung  xoay quanh chủ đề thế nào là trí thức, ai là trí thức.
  
Không đọc, không biết thì thôi chứ đọc, biết rồi mà không "còm", thì e rằng ăn Tết mất ngon. Cảm nhận đầu tiên là, nội dung trả lời phỏng vấn của vị giáo sư nói chung là "ổn" trừ một vài câu chữ có thể gọi là "nhỡ mồn" của "Người thích làm toán". Ai cũng biết ông là người tài giỏi thật sự (nếu không làm sao lấy được giải Field?) và cũng rất quan tâm đến thời cuộc đất nước (qua những phát biểu rất "trúng đích" trước đây). Còn nhớ cách đây không lâu chính ông đã từng nói câu bất hủ: "Chỉ có đàn cừu mới đi theo lề" khiến dư luận đông đảo rất tán thưởng . Nhưng bây giờ ông lại cho rằng trí thức không cần tham gia phản biện xã hội; hay nói cách khác là đứng ngoài công cuộc đấu tranh chính trị-xã hội. Với uy tín của mình e rằng câu nói của vị giáo sư trẻ có thể khuyến khích giới trẻ đứng ngoài lề công cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ chính trị-xã hội của đất nước. Có lẽ đây chính là điều mà dư luận cảm thấy thất vọng hoặc không thể tán thành đối với vị giáo sư mà họ rất kỳ vọng .

Vẫn biết khi nói về phạm trù trí thức,đặc biệt nói với giới trí thức, thường không đơn giản chút nào!  Bản thân tôi không rành về lý thuyết Đông-Tây, kim-cổ..., nhưng tin rằng khái niệm trí thức hoàn toàn khác với trí óc (nói "lao động trí óc" thì được, nhưng không ai nói "lao động trí thức"), tức là trí thức không phải một nghề. Vì vậy, nếu đem ra bình chọn trí thức thì dựa vào cơ sở nào? Có ý kiến cho rằng phản biện là một điều kiện của người trí thức kể ra cũng không sai nhưng có lẽ cũng không thật sự công bằng lắm.  Mặc khác, có ý kiến cho rằng không nhất thiết người làm việc bằng trí óc là người trí thức. 

Nhưng nếu cứ tranh cãi loanh quanh như thế sẽ không bao giờ phân thắng bại, nhất là trong môi trường Việt Nam lâu nay không chỉ thiếu nhiều luật lệ mà còn thiếu nếp tư duy khách quan (Chỉ có dân số ngày càng đông, xe cộ ngày càng nhiều, kẻ cắp các loại cũng nhiều làm ô nhiễm cả môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội). Sự thật là, từ ngày cách mạng thành công dường như không còn chỗ cho cách tư duy độc lập, khách quan theo lô-gíc, mà thay vào đó bằng cách tư duy theo định hướng hoặc để chứng minh cho một định đề. Cách tư duy này được áp dụng không chỉ trong trong lĩnh vực nghiên cứu chính trị mà cả trong khoa học tự nhiên và xã hội, nguy hại nhất là cả trong giáo dục-đào tạo. Rốt cuộc ai cũng rất giỏi ngụy biện và thích "thần tượng hóa", mô hình hóa"...Nhà toán học trẻ mới chân ước chân ráo về nước đã được đón nhận như một thần tượng....đến bản thân ông cũng ngỡ ngàng. Và giờ đây người hâm mộ cũng rất dễ thất vọng khi thấy có điều gì đó không như ý từ thần tượng của mình.Và người ta tha hồ suy diễn, tranh cãi không theo một thứ lo-gíc nào cũng là điều dễ hiểu.     

Hẹn sau Tết  gặp lại bàn thêm. Nhân đây chúc mọi người NĂM MỚI AN KHANG, HẠNH PHÚC! 

Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

Hiểm họa đối với các quốc gia độc tài

Vì sao độc tài được dân chấp nhận?   
Các bài học luân lý Đông-Tây xưa nay đều cho rằng các chế độ độc tài dù ở bất cứ hình thức nào đều là xấu xa , và vì vậy sớm muộn cũng bị nhân dân vùng lên đánh đổ. Cũng đã có rất nhiều dẫn chứng về vấn đề có tính quy luật này, đó là sự sụp đổ của các thể chế cũ kĩ, lỗi thời trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, gần đây nhất là trường hợp Saddam Hussein ở I rắc, Mubarak ở Ai Cập và Gadhafi ở Libya.
Tuy nhiên còn có một thực tế khác, đó là nhiều thể chế độc tài chuyên chế vẫn trường tồn, thậm chí với sự ngưỡng mộ và thần phục của đông đảo dân chúng. Đó là trường hợp các vương triều như ở Bhuttan,  Botswana, Bruney, và cả các thể chế chính trị hiện đại nơi mà đói nghèo luôn đeo bám người dân, như Zimbabwe và Bắc Triều Tiên, v.v...Ở một số nước phát triển vẫn duy trì hình thức vua chúa vì nó còn hấp dẫn đối với dân chúng. Trước cảnh tượng người dân Bắc Triều Tiên than khóc như mưa sau cái chết của "lãnh tụ vĩ đại" Kim Jong-Il mới đây nhiều người không tin đó là khóc thật. Nhưng dù khóc thật hay giả, đó là một cách hành xử thường thấy trong cộng đồng các nền độc tài chuyên chế. Nó cho thấy những chế độ độc tài vẫn có cơ sở để tồn tại một cách vững chắc, thậm chí còn lâu hơn một số thể chế không độc tài.
Phụ nữ Botswana khoe sắc để được nhà vua chọn làm thê thiếp  
Vậy ra, không hẳn cứ là độc tài thì ắt sẽ bị quần chúng nhân dân đứng lên đánh đổ(?). Và điều này thể hiện khá rõ ngay cả ở trường hợp Sadam Husein và Gadhafi trong suốt thời kỳ cầm quyền của họ; lại càng rõ với trường hợp Bắc Triều Tiên, I-ran và một số quốc gia độc tài chuyên chế khác nơi mà mãi vẫn chưa thấy một phong trào quần chúng thật sự lớn mạnh lật đổ; trái lại còn được dân chúng một lòng ủng hộ. Trên thực tế hầu hết các vương quốc ngự trị bởi chế độ cha truyền con nối hoặc các chính thể độc tài chuyên chế không hề gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ nào từ dân chúng, trái lại ở đó kẻ thống trị còn được người dân sùng bái hơn nhiều so với những gì mà các nguyên thủ ở các quốc gia dân chủ nhận được từ nhân dân của họ.
Người dân Bắc Triều Tiên vật vã tiếc thương Kim Jong Il
Người ngoài cuộc thường dễ dãi kết luận rằng đó là do sự đàn áp và bưng bít thông tin. Kết luận này đúng nhưng chưa đủ; còn phải tính đến đặc điểm tư duy của con người bị chi phối bởi yếu tố tinh thần mơ hồ về đạo đức, tín ngưỡng và quyền lợi....  Mặc khác, khách quan mà nói, ngay cả bản thân khái niệm độc tài cũng chưa hẳn nhất thiết phải như nhau giữa các dân tộc tùy trình độ phát triển và hoàn cảnh lịch sử, văn hóa-xã hội. Tất cả những điều đó dù muốn hay không đều góp phần tạo nên mãnh đất màu mỡ cho các chế độ độc tài chuyên chế sinh tồn. Chúng tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, có trường hợp công khai, lộ liễu, thậm chí được tuyên bố; có trường hợp trá hình dưới những tên gọi mĩ miều với những chiêu bài chính trị, tôn giáo thần bí. Điểm chung nhất của chúng là tệ sùng bái cá nhân, tham quyền cố vị và tham nhũng bất chấp lợi ích của dân chúng. Để tồn tại chúng thường sử dụng các thủ đoạn tuyên truyền đạo đức giả kết hợp với các thủ đoạn đàn áp.    

Xu hướng sử dụng can thiệp bên ngoài để đánh đổ độc tài và hệ quả của nó
 
Nhìn lại hầu hết trường hợp sụp đổ của các chế độ độc tài gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi ta thấy đều nhờ có sự can thiệp trên quy mô lớn của quân đội nước ngoài. Đó là sự can thiệp công khai, thậm chí trắng trợn, của một nước hoặc nhóm nước. Vẫn biết đó là cái giá mà những kẻ độc tài phải trả, nhưng khách quan mà nói, hầu hết các trường hợp can thiệp quân sự từ bên ngoài trong thời gian qua đều dẫn đến chiến tranh tàn khốc kéo dài, và nạn nhân chính là nhân dân ở các nước bị can thiệp.
Nguy cơ nội chiến kéo dài ở Libya


Có thể còn quá sớm để thế giới ngồi lại đặt vấn đề một cách nghiêm túc về câu hỏi nói trên. Nhưng trước mắt có thể thấy nguyên nhân từ hệ quả của trào lưu toàn cầu hóa cao độ đang xóa bỏ tình trạng biệt lập hoặc khác biệt quá xa giữa các quốc gia, đồng thời sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã tạo ra những hiệu ứng trực tiếp giúp con người mau chóng truyền đạt thông tin và tri thức xuyên quốc gia trên quy mô toàn cầu, trong đó internet là phương tiện hầu như không bị ngăn cách bởi biên giới hay chế độ chính trị-xã hội. Nói cách khác, bức tường ngăn cách thông tin giữa các quốc gia đã bị phá vỡ. Đó là cơ sở để nhanh chóng hình thành mối liên kết giữa các cá nhân và các nhóm chính kiến từ bên trong các quốc gia độc tài chuyên chế với thế giới bên ngoài và tạo nên tình huống cho sự hỗ trợ của các lực lượng từ bên ngoài . Phương cách can thiệp như vậy dường như đang tìm thấy lý do chính đáng và được hoan nghênh đơn giản vì vì nó có thể đánh sập nhanh một chế độ độc tài . Đó là những gì đã và đang diễn ra khi Mỹ và Đồng minh được cả LHQ chấp thuận sử dụng biện pháp chiến tranh để lật đổ các chế độ độc tài chuyên chế của các quốc gia có chủ quyền như ta thấy gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi.

Vẫn biết các chế độ độc tài là xấu xa và cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt, và trước sự cố kết để bám giữ của chúng thì sự can thiệp từ bên ngoài là cần thiết. Song cái gì cũng có ít nhất là hai mặt của nó. Trước hết cần khẳng định lại nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đó là mọi sự can thiệp quân sự  từ bên ngoài vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền đều là phi pháp. Thực tiễn cho thấy cách thức can thiệp như vậy suy cho cùng chỉ có lợi cho các nước lớn mạnh, và cũng được các nhóm lợi ích kình chống nhau trong nội bộ mỗi quốc gia lợi dụng, nhưng đại đa số nhân dân các nước bị can thiệp cũng như các nước đi can thiệp đều không có lợi ích gì, trái lại phải hứng chịu những hậu quả khôn lường .  Về mặt này cũng nên nhắc lại nguyên lý  "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Sự can thiệp của bên ngoài chỉ có thể chấp nhận một khi quần chúng bên trong một quốc gia đồng lòng kêu gọi. Nói cách khác, xấu-tốt, sớm-muộn, thành công hay thất bại, đều nên để nhân dân mỗi nước quyết định vận mệnh của họ. Khốn nỗi đó là một khái niệm mơ hồ, dễ nhầm lẫn giữa phong trào quần chúng thực sự với những nhóm lợi ích hay sắc tộc hoặc tôn giáo cố tình lợi dung sự can thiệp của bên ngoài. Mọi sự can thiệp dựa trên cơ sỡ "nhầm lẫn" như vậy đều không thể chấm dứt được nguồn gốc  độc tài  mà chỉ thay thế chế độ độc tài này bằng một chế độ độc tài khác hoặc gây ra một quá trình nội chiến và nạn nghèo đối kéo dài, thậm chí nguy cơ mất độc lập chủ quyền đối với các quốc gia bị can thiệp. Nguy cơ này đang thể hiện khá rõ trong trường hợp I-rắc sau Saddam Hussein,  Libya sau Gadhafi và cả Ai cập, Afghanistan cũng như đối với các nước khác đang trong quá trình của cái gọi là "cách mạng màu".

Tóm lại, các thể chế độc tài, chuyên chế và phi dân chủ là trở ngại phải loại bỏ để mở đường cho nhân dân tiến lên ấm no hạnh phúc. Nhưng cách thức đánh đổ chúng và hậu quả sau đó đối với quốc gia bị đánh đổ là một vấn đề đặt ra đối với thế giới hiện đại. Đây là bài học đối với mọi quốc gia dân tộc không may đang bị các chế độ độc tài chuyên chế ở các mức độ khác nhau thống trị. Bài học nhãn tiền là đất nước có thể rơi vào tình trạng bạo loạn và nội chiến, thậm chí mất cả độc lập tự chủ. Không phải dân tộc nói chung mà trước hết những kẻ độc tài chuyên chế phải nhận thức được điều này. Họ cần biết rằng ngày nay dân chúng có điều kiện tốt hơn để hiểu biết và giác ngộ về quyền lợi chính đáng của mình để nổi dậy. Và đó là cơ sở để bên ngoài can thiệp dù muốn hay không. Do đó, giải pháp ít xấu hơn là  họ phải tự thay đổi  hoặc chuyển giao quyền lực khi chưa quá muộn. Trường hợp Vua Nêpan đã tự nguyện thoái vị để nhường bước cho cho chế độ dân chủ hồi năm 2006 và mới đây giới quân sự Myanma cũng đã chuyển giao quyền lực một cách hòa bình cho giới dân sự khiến thế giới hết sức ngưỡng mộ. Sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu những năm cuối thế kỷ trước dù sao cũng là một dạng chuyển giao quyền lực thành công một cách hòa bình  mà không cần sự can thiệp quân sự  từ bên ngoài. /.       


Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2012

Việt Nam một lần nữa chính thức khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam


Liên quan đến nội dung trả lời trực tuyến mạng Tin tức Trung Quốc về tranh chấp trên Biển Đông  của Phó Vụ trưởng Vụ Biên giới và Biển, Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dị Tiên Lương ngày 6/1/2012, Vụ trưởng Vụ Biển - Uỷ ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Quý Quỳnh đã trả lời phỏng vấn báo VnExpress trong đó nêu rõ tính phi lý của cái gọi là "đường lưỡi bò" đồng thời khẳng định lai Hoàng Sa là của VN . 
Dưới đây là toàn văn nội dung phỏng vấn do PV Mai Trang thực hiện- Nguồn: VN-Express  13/1/2012,


Hỏi:  Trong bài phỏng vấn của mình, ông Dị Tiên Lương có nói: Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Trung Quốc đã thu hồi quần đảo “Tây Sa” (cách Trung Quốc gọi Hoàng Sa của Việt Nam) và “Nam Sa” (cách Trung Quốc gọi Trường Sa của Việt Nam) từ tay quân Nhật. Vậy thưa ông, sự thật lịch sử là như thế nào?
 Đáp:  Tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951 - một Hội nghị quốc tế quan trọng giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ II, đại diện của Chính phủ Việt Nam khi đó đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và không có nước nào tham dự Hội nghị phản đối, trong khi Dự thảo Nghị quyết do Liên Xô đưa ra nhằm trao hai quần đảo này cho Trung Quốc đã bị 48/51 phiếu chống. Điều đó cho thấy, đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã bị bác bỏ; còn chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được thừa nhận tại một hội nghị quốc tế quan trọng sau chiến tranh thế giới thứ II. Như vậy, ý kiến phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn trái với thực tế lịch sử lúc bấy giờ.

Hỏi:  Ông Dị Tiên Lương nói rằng: Tháng 12/1947, Bộ Nội chính Chính phủ Trung Quốc đã ban hành “Bản đồ vị trí các đảo ở Nam Hải”, vẽ “đường nét đứt” và đặt tên cho một số đảo đá, bãi v.v.... và chính thức công bố ra bên ngoài năm 1948 v.v... Đường nét đứt là để khẳng định chủ quyền lãnh thổ và lợi ích biển liên quan của Trung Quốc. Việc Trung Quốc đưa ra đường yêu sách theo đường đứt khúc 9 đoạn (hay còn gọi là “đường lưỡi bò”) năm 2009 trên Biển Đông đã gây ra rất nhiều phản ứng của các nước trong và ngoài khu vực và đã bị phê phán rất nhiều trong các cuộc hội thảo quốc tế. Xin ông cho biết ý kiến về việc này?
Đáp: Cho tới trước năm 2009, Trung Quốc chưa bao giờ chính thức đưa ra yêu sách này. “Đường lưỡi bò” hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và lịch sử, vì được vẽ ra một cách tùy tiện, không có toạ độ của các điểm cụ thể và không được quốc tế công nhận. Năm 2009, Trung Quốc lần đầu chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò” ra Liên Hợp Quốc nhưng không có giải thích cụ thể. Ngay sau đó, Việt Nam, và tiếp đến là Indonesia, Philippines đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách phi lý đó của Trung Quốc. Tại các cuộc hội thảo quốc tế gần đây, rất nhiều học giả quốc tế như Pháp, Bỉ, Mỹ, Indonesia đã chỉ ra tính phi lý của yêu sách “đường lưỡi bò”, đồng thời, nhiều học giả còn nhấn mạnh rằng, chính yêu sách “đường lưỡi bò” là nguyên nhân gây ra những căng thẳng, phức tạp trên Biển Đông. Cụ thể là:
- Yêu sách “đường lưỡi bò” hoàn toàn đi ngược lại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 mà Trung Quốc là một bên tham gia; vùng biển mà “đường lưỡi bò” bao trùm không thể là lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc.
- Cho tới nay, các văn bản pháp luật về biển của Trung Quốc đều không đề cập tới yêu sách “đường lưỡi bò”;
- Thực tiễn các quốc gia ven Biển Đông cũng như các quốc gia ngoài khu vực đều phủ nhận yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc;
- “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của năm nước là Việt Nam, Philippines, Indonesia, Malaysia và Brunei.

Hỏi: Ông Dị Tiên Lương khẳng định Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý đối với chủ quyền ở “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có ý kiến gì về vấn đề này?
Đáp: Đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử chứng minh rằng Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này ít nhất từ thế kĩ 17 khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ 19, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo như cử các đội Hoàng Sa ra quần đảo đo đạc, thể hiện trên bản đồ, dựng bia, lập miếu, quản lý và tổ chức đánh bắt hải sản tại quần đảo Hoàng Sa. Các văn bản pháp lý của Nhà nước phong kiến Việt Nam như Châu bản, Sắc chỉ hiện đang được lưu giữ tại các trung tâm lưu trữ của Việt Nam đã khẳng định rõ chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong thời kỳ Pháp thuộc (cuối thế kỷ 19 nửa đầu thế kỷ 20), Pháp đã nhân danh Việt Nam tiếp tục thực thi quyền quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; từ những năm 30 của Thế kỷ 20 Pháp quy thuộc hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào các tỉnh đất liền của Việt Nam và cho quân đồn trú ở hai quần đảo này; sau đó theo Hiệp định Geneva, Pháp đã chuyển giao hai quần đảo cho chính quyền Sài Gòn - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Sau năm 1975, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý các đảo ở Trường Sa.
Như vậy, việc thực thi chủ quyền lãnh thổ của các Nhà nước Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được tiến hành một cách thực sự, hoà bình và liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, năm 1956 Trung Quốc đã đưa quân đội chiếm các đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa, năm 1974 Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa; và năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa. Hành động này của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đi ngược lại tinh thần Hiến Chương của Liên Hợp Quốc và đã bị nhiều quốc gia trên thế giới lên tiếng lên án.

Hỏi: Ông Dị Tiên Lương nói rằng năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã gửi Công thư đến Thủ tướng Chu Ân Lai, công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa) và “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có thể cho biết ý kiến của mình về việc này?
Đáp: Nội dung của Công thư ngày 14/9/1958 là hết sức rõ ràng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ ghi nhận, tán thành và tôn trọng Quyết định của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về hải phận 12 hải lý của đất nước Trung Quốc. Công thư không liên quan gì đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó nằm phía Nam Vĩ tuyến 17 và theo Hiệp định Geneva thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà.
Việc cho rằng bản Công thư ngày 14/9/1958 là bằng chứng Chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là xuyên tạc lịch sử. Việt Nam từ trước tới nay chưa hề có bất cứ một tuyên bố nào từ bỏ chủ quyền thiêng liêng của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 9 năm 1975, khi tiếp đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam sang thăm Trung Quốc, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã nói: “Giữa hai nước có tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau này sẽ bàn bạc giải quyết”. Trong Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã nhắc lại nội dung này. Điều này cho thấy, theo quan điểm của phía Trung Quốc, giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc có tồn tại tranh chấp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại các cuộc đàm phán về vấn đề trên biển giữa hai nước, kể cả tại các vòng đàm phán về Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển vừa qua, hai bên đều nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tôi xin khẳng định lại một lần nữa rằng lập trường của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là rõ ràng và nhất quán. Việt Nam là nhà nước đầu tiên và duy nhất đã thực hiện quyền làm chủ của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hoà bình, ổn định và liên tục. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặt khác, Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng Luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 và trên tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002.

Hỏi: Ông có bình luận gì về việc ông Dị Tiên Lương nói rằng các hoạt động dầu khí của các nước ở “Nam Hải” (Biển Đông) mà không có sự đồng ý của Trung Quốc là hoạt động phi pháp?
- Là quốc gia đã ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Việt Nam đã và đang thực thi đầy đủ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các hải đảo, vùng biển và thềm lục địa của mình theo các quy định của Công ước. Cụ thể, Việt Nam đã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đảm bảo thi hành pháp luật trên các vùng biển và hải đảo; tiến hành thăm dò, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển trong đó có các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí. Các hoạt động dầu khí đều được tiến hành trong vùng đặc quyền và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, không có tranh chấp với bất kỳ quốc gia nào.
Chính Trung Quốc cũng là quốc gia đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 nên cần phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của Công ước này.
Phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn vô lý, xúc phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

Trống Đồng - Di chỉ nguồn cội Việt


Mới đây xuất hiện một entry trên 5xublog.org về cội nguồn dân tộc Việt Nam khiến dư luận khá xôn xao (Mời xem nội dung đầy đủ tại địa chỉ: http://5xublog.org/) Blog Bách Việt tôi cảm thấy ít nhiều có chút "trách nhiệm" để tham gia thảo luận xung quanh chủ đề thú vị này.
Trước hết xin chân thành bày tỏ sự đồng cảm trước tấm lòng quan tâm đến cội nguồn dân tộc của blog5xu khi đã cất công tìm tòi, lục lọi… và đưa ra một vài "ý tưởng" khá thú vị. Dù sao việc này cũng còn hơn là "ngồi chơi xơi nước" như nhiều vị "thiền sư sử học" trong biên chế lâu nay chỉ quen tụng niệm bài bản đã có và bắt học sinh học thuộc lòng lấy điểm rồi khen/chê giỏi/dở...; ai thắc mắc hay nói trái ý thì cho trượt luôn!
Thứ đến xin có vài nhời bàn như sau:
Entry của 5xublog đã diễn giãi một vài đoạn trong một quyển Giao châu ngoại vực kí của kẻ thống trị phương Bắc để nói rằng lịch sử nguồn cội dân tộc Việt Nam chẳng có gì, kể cả mấy cái tên gọi là Lạc Việt, Hùng Vương,...đều là do người Hán gọi thế kia, rồi người Việt dịch nôm na thành ra thế này...!
Thiết nghĩ nếu cứ suy diễm kiểu blog 5xu thì không thể nào kể ra cho hết mọi sự suy diễn có thể có về nguồn cội người Việt. Nhưng có một điều không nên quên là, mọi sử sách liên quan đến dân tộc Viêt Nam ngày nay đều do kẻ thống trị phương Bắc viết ra hoặc sao chép lại, thậm chí bị xuyên tạc, bịa đặt cho mục đích thống trị,do đó càng về sau càng sai lệch với sự thật. Khoan hãy bàn về nguồn gốc nguyên thủy người Việt từ đâu mà ra, gọi là gì,...nhưng điều đã rõ, họ đã bị người phương Bắc dồn đẩy về phương Nam và đô hộ 1.000 năm liên tục, cộng lại không ít hơn  2.000. Giả sử người Việt đã có chữ viết, thì trong quá trình bị dồn đẩy và thống trị chắc chắn khó mà còn lại dấu vết gì trên con đường ly tán tha hương đó. Cái mà ta còn thấy được trên vùng đất mà kẻ thù đặt tên là "Giao chỉ" thực sự không phải là điểm xuất phát của dân tộc Việt; và người Việt Nam bằng da bằng thịt ngày nay chắc chắn không phải là người Giao chỉ. Cũng không thể có cái gì gọi là "thuần Việt" cả đâu! Lịch sử nhiều nên văn minh nhân loại đã từng bị lãng quên trong các thời kỳ ngắn hơn thế nhiều lần (như người Maya,người Sumer, người Da đỏ, người Chàm...). Cái còn lại chính xác nhất không phải là qua sử sách mà trong các di chỉ khảo cổ và gen di truyền mặc các di tích còn phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên, di truyền đôi khi cũng khó nhận biết rạch ròi.
Theo tôi thiện nghĩ, trong khi còn phải chờ đợi bổ sung của những kết quả nghiên cứu khảo cổ và di truyền, có một cơ sở không chối cãi được của nguồn cội Việt là Trống đồng. Nói cách khác ở đâu có trống đồng, ở đó có thể tìm thấy nguồn cội Việt. Được biết, trong khi VN, vì một số lý do khác nhau, chưa thực sự coi trọng thì thế giới lại có nhiều nghiên cứu dưa trên các di chỉ khảo cỗ Trống Đồng. Ngoài giá trị vật thể của bản thân chiếc trống, các hoa văn trên trống cũng cho thấy những chỉ dấu về nhân văn của người Việt, đặc biệt có biểu tượng Kinh Dịch mà đến nay người TQ đã chính thức thừa nhận không phải của mình. Dưới đây là một trích đoạn nói về Trống Đồng trên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

Bắt đầu trích dẫn
Nghiên cứu về nguồn gốc trống đồng
Tại phương Tây, đã có dấu vết rằng người ta đã biết về trống đồng từ năm 1682[6]. Nhưng mãi tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890), tác giả này cho rằng trống đồng là của Trung Quốc. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Nam. Trong cuốn Alte Metalltrommeln aus Südost Asien (Trống kim loại cổ Đông Nam Á) năm 1902, Franz Heger, nhà khảo cổ học người Áo khẳng định rằng trống đồng xuất phát từ miền Bắc Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở vùng này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại - phân loại Heger. Trước thập niên 1950, một số phân loại khác đã được đề xuất, nhưng không có cách nào được chấp nhận rộng rãi như phân loại của Heger[7].
Các nghiên cứu về trống đồng mãi đến cuối thế kỷ 19 mới được bắt đầu và được bắt đầu bởi người phương Tây. Trước thập niên 1950, hầu hết các nghiên cứu quan trọng đều được viết bởi các học giả phương Tây, đặc biệt nhất là Heger. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949 và Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, các học giả Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu chiếm lĩnh lĩnh vực nghiên cứu về trống đồng. Đến cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, đã có những cuộc tranh luận xung quanh việc phân loại trống, ý nghĩa các họa tiết trang trí, niên đại trống..., nhưng chủ đề tranh luận chính yếu là trống đồng xuất phát từ đâu: miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc[8]. Các học giả Việt Nam ủng hộ phân loại của Heger và cho rằng trống đồng Đông Sơn (Heger loại I) là loại cổ nhất. Còn các học giả Trung Quốc ban đầu đa số phủ nhận phân loại của Heger, cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại II mới là cổ nhất. Từ khi trống loại Vạn Gia Bá, loại trống gần giống loại Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn, được tìm thấy ở Vân Nam, các học giả Trung Quốc lại quay về thống nhất với một cách phân loại theo thứ tự phân loại của Hegel nhưng bổ sung một loại xếp thứ tự cổ hơn Heger loại I, đó là loại trống Vạn Gia Bá. Theo cách phân loại của Việt Nam, trống Vạn Gia Bá (trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam thập niên 1980 thuộc loại này) được xếp vào loại con của thời kỳ cuối của loại trống Đông Sơn.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa đi được đến một kết thống nhất về một xuất xứ Việt Nam hay Trung Quốc của trống đồng - một truyền thống mà có thể đã được chia sẻ giữa tổ tiên của cả hai. Thực tế là tại thời điểm trống đồng được phát minh, không có một đường biên giới giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Nhiều nhóm người sống trong vùng đất rộng lớn đó đã có quan hệ với nhau về sinh học hoặc văn hóa hoặc cả hai. Học giả phương Tây Charles Higham, người đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng các xu thế dân tộc chủ nghĩa của các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc đã che lấp tình huống mà khảo cổ học đã khai lộ. Ông đưa ra giả thuyết rằng trống đồng đã được tạo bởi các nghệ sĩ tài hoa của một nhóm các xã hội có tổ chức ngày càng phức tạp với địa bàn trải rộng qua biên giới Việt-Trung hiện đại, để trang bị cho các chiến binh và làm biểu tượng cho vị thế cao của những người lãnh đạo. Ông viết: "Việc tìm kiếm nguồn gốc tại một vùng này hay vùng khác đã bỏ qua điểm quan trọng. Các thay đổi đã được thực hiện suốt từ vùng mà ngày nay là miền Nam Trung Hoa tới đồng bằng sông Hồng bởi các nhóm người mà thời đó đã trao đổi hàng hóa, tư tưởng, và cùng chống lại sự bành trướng từ phía Bắc của một quốc gia hùng mạnh và hiếu chiến"[9]. Quan điểm này tương đồng với sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, hay phương Tây rằng trống đồng là sản phẩm của người Lạc Việt - tộc người Việt cổ được cho là có địa bàn sinh sống trải từ miền Nam Trung Quốc tới miền Bắc Việt Nam.
Hết trích dẫn.(*)

Nói vậy để thâý rằng nếu chỉ "tầm ngôn, trích cú" từ sách sử của phương Bắc thì chưa đủ để kết luận về nguồn gốc người Việt! Hơn nữa nếu trình bày vấn đề một cách phiến diện rất dễ khiến cho bản thân ta mất lòng tin vào chính mình,thậm chí tự chế nhạo mình, thì thật là tai hại!. Dân tộc nào, kể cả người Hán, đều trãi qua thời kỳ mông muội, thô sơ lạc hậu...Chẳng qua nhờ có cơ hội nào đó mà vượt lên hoặc nhỡ cơ mà đi xuống hoặc lụi tàn. Nhưng vạn vật đều có chu kỳ tiến hóa của nó. Khi bàn về cội nguồn dân tộc, người ta không căn cứ vào kết quả mà căn cứ vào quá khứ dù quá khứ đó là huy hoàng rực rỡ hay không. Cái chính là để tìm ra "sợi giây" liên kết hiện tại với quá khứ để làm điểm tựa đi vào tương lai, nếu không sẽ như con diều đứt giây vây!./.

 (*) Nguồn:Wikipedia song ngữ Việt và Anh.


Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2012

Chán quá!



Gần tuần lễ nay blogger tôi không thể nào vào được "nhà" của mình. Thử vào blog khác thấy một số như Lều Thăng sắc, Tuanvn, v.v...cũng không được,nhưng vào Quechoa,Bauxitvn, Basam... vẫn bình thường.Hỏi tranhung09 bảo đó là do "trùng" với đợt chặn của nguồn cung cấp dịch vụ gì đấy..., và bày cho cách "vượt rào". Thế là hôm nay mới vào được... Nhưng thấy nhà trống vắng hẳn, chỉ có vài trăm readers cả tuần qua!

Từ ngày chuyển sang blogspot (tháng 3/2011) đây là lần "bị chặn" tệ hại nhất.Đáng lẽ không sốt ruột lắm nếu không có tâm trạng chờ đợi số reader 99.999!, và cũng lo bị ai đó "phá nhà"... Hiện giờ tạm thời "vượt rào", nhưng tốc độ rất chậm chạp và khó làm việc, cũng chẳng thấy mấy reader vào đọc. Nói chung là chán và nản với cái trò "ngăn sông cấm chợ"!

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012

Cái nút áo

Câu chuyện dưới đây tôi đã đọc trên mạng, nhưng không hiểu sao lúc đó thấy cũng bình thường. Mới đây nhân năm mới bạn bè lại chuyển cho bằng e-mail, đọc lại thấy câu chuyện như hay hơn rất nhiều lần... Hóa ra đó là do tâm trạng - yếu tố vô cùng quan trọng khi ta làm bất cứ việc gì... Và tôi thấy phải lưu lại câu chuyện này cho chính mình và con cháu , sau đó là bạn bè cùng chia sẻ.

Cái nút áo

Tác giả: Không tên
Nguồn:http://songdep.xitrum.net/nghethuatsong/532.html

Cảm thấy khát khô ở cổ, tôi lồm cồm ngồi dậy mở tủ lạnh nốc một hơi. Nước lạnh làm tôi tỉnh người. Nhìn đồng hồ đã hơn 4g sáng. Tôi đến bên máy vi tính bật máy lên. Mở chương trình Nhật Ký định nhập vào những việc mình đã làm hoặc những suy nghĩ về một ngày đã qua. Nhưng chương trình lại bật lên thông báo nhấp nháy màu đỏ chói: "Tuần sau là đến ngày đầu tiên quen M". Tôi chỉnh chương trình để xem lại cái ngày đầu tiên đó và mỉm cười khi thấy lúc đó mình trẻ con hết sức.Tôi quyết định sẽ lục tung hết Internet để tìm ra một cái thiệp độc chiêu gửi nàng. Cuối cùng tôi cũng mãn nguyện với một cái thiệp nhiều ý nghĩa. Tôi kéo ngăn tủ ra để lấy cái đĩa CD hình mình để ghép vào thiệp, nhưng chợt nhìn thấy trong đó có một gói quà xinh xắn. Biết là của M tôi hồi hộp mở gói quà. Bên trên là một tấm thiệp to, còn bên dưới là một chiếc đồng hồ để bàn rất dễ thương và một cái nút áo. Hơi ngạc nhiên khi nhìn cái nút áo, tôi vội mở thiệp ra xem. "Anh thân mến! Thế là chúng mình quen nhau đã 3 năm rồi. Trong 3 năm qua em rất vui vì đã quen được anh. Em đã học được rất nhiều điều từ anh. Anh là người rất giỏi, làm được rất nhiều việc lại sống rất tốt với mọi người. Anh sống hết sức chan hoà không câu nệ giàu nghèo, chức vị. Anh hết lòng với mọi người và được rất nhiều anh em bè bạn mến yêu, kính nể. Tối nay, cũng như bao ngày em đến nhà anh, đã 9g tối anh vẫn chưa về nhà. Khi đến nhà anh, em nhìn thấy mẹ đang khâu lại chiếc áo bị bỏng thuốc lá của anh. Nhìn mẹ chợt em nhớ đến anh, rồi nhớ đến những gì em đã thấy ở nhà anh. Em xin phép được tặng cho anh cái đồng hồ với lời nhắn: "Thời gian luôn trôi đi lạnh lùng. Có những thứ ngày mai làm được, nhưng có những thứ ngày mai không thể nào làm được". Và một cái nút áo với lời nhắn chân tình: "Đôi khi người ta biết được rất nhiều điều nhưng lại không biết một điều đơn giản là áo mình đang mặc có bao nhiêu cái nút!". Anh đã sống vì mọi người nhưng trong mọi người lại thiếu một người quan trọng nhất. Anh hãy xem tờ giấy bên dưới. Chúc anh luôn vui vẻ và thành đạt". Tôi cầm đồng hồ và cái nút lên, bên dưới có một tờ giấy xếp làm tư nằm ngay ngắn, tôi mở ra xem và thấy ngẩn ngơ với những dòng chữ dưới đây: Em thấy anh rủ bạn về nhà cùng vui vẻ, làm xả láng mấy thùng Ken, anh em bàn tán chuyện đời, chuyện cơ quan, chuyện nhà sếp, chuyện quan trường, đủ thứ chuyện nhậu hoài bàn hổng hết. Em thấy mẹ cặm cụi dọn dẹp thức ăn dư, lom khom nhặt từng vỏ lon xếp lại, sáng mai ra chợ đổi lấy chục chanh pha nước, cho thằng con tỉnh rượu mỗi khi say. Em thấy anh sáng ra sạp gom gần hết báo, đọc ngấu nghiến từng bài từng mục. Ngẫm chuyện đời, chuyện quan liêu, chuyện cửa quyền, chuyện Mỹ, chuyện I rắc, chuyện SEA Games... Em thấy mẹ cẩn thận sắp từng tờ báo, lựa riêng ra những phần quảng cáo rồi ngập ngừng hỏi cái này cân ký bán được hông con? Em thấy anh chơi hết lòng với bạn, chẳng bỏ về dù tăng 4 hay tăng 3... Em thấy mẹ cứ trằn trọc ra vô mãi, 2g rồi mà phòng nó vắng tanh Em thấy anh sau một ngày làm mệt mỏi, về nhà bật máy lạnh, bật quạt, ngã lưng nằm thẳng chân, chẳng muộn phiền. Em thấy mẹ ra hiên nằm những ngày trời nóng, rồi lẩm bẩm xem điện tháng này có quá định mức chưa. Em thấy anh ghiền chơi vi tính, cứ băn khoăn hoài chuyện nâng cấp CPU lên 2 hay 3 Gb. Em thấy mẹ rất ghiền xem cải lương, cứ chặm nước mắt, cứ cười vui thoải mái khi xem hoài cái tivi cà giật, cái Tivi từ lúc anh tắm mưa. Em thấy anh chuyên viên vi tính, viết phần mềm để quản lý công ty, xem công nợ, lãi lỗ, bấm một phát là có ngay. Thế mà chẳng thể nào tính đúng được tình thương của người mẹ. Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh! Em thấy anh chuyện làm chuyện lớn mà quên đi những chuyện nhỏ xung quanh. Em thấy mẹ suốt đời vụn vặt mà dạy con mình những bài học lớn lao... Có bao giờ các bạn nghĩ rằng mình đã thật sự quan tâm đến ai đó chưa?Có bao giờ các bạn đã quan tâm đến những chuyện dù chỉ là nhỏ nhặt?Có bao giờ các bạn tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác?Hi vọng qua câu chuyện này tôi và các bạn có thể tìm lại được những bài học về sự quan tâm mà các bạn đã lỡ đánh mất.Hãy dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho những người người mẹ, người cha, những người luôn ở bên các bạn, luôn hướng sự quan tâm về phía các bạn mà không cần đòi hỏi điều đó từ các bạn !
*****

Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012

Khi người đứng đầu nói mà không làm

Tại HN TW VI, khóa XI (từ 26-31/12/2011) đã đưa ra NQ về củng cố, chỉnh đốn Đảng,  Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu vạch ra nhiều vấn đề yếu kém tồn tại..., coi đây là "vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta".

Nếu đọc kĩ, có thể thấy hầu hết nội dung bài phát biểu, kể cả cụm từ "vấn đề sống còn của Đảng, chế độ", đều đã được các vị lãnh đạo đảng và nhà nước cũng như nhân dân đã nói đến trong các dịp khác nhau với mức độ và cách thức khác nhau. Tuy nhiên bài của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần này mang tính tổng kết súc tích, rõ ràng hơn cả. Nó lại được đưa ra tại một thời điểm "bức xúc" nhất của dư luận trước tình trạng suy thoái về tư tưởng trong bộ máy công quyền và trong Đảng . Có lẽ đây là lý do chính để ông nhận được sự hoan nghênh và cả niềm hy vọng từ công chúng.

Tuy nhiên, ngay cả những người lạc quan tin tưởng nhất vẫn không tránh khỏi tâm trạng hoài nghi về tính khả thi của nó. Nhân dân cần nhiều hơn và cụ thể hơn thế. Còn nhớ thời ông Lê Khả Phiêu đã từng nói rất mạnh về chống tham nhũng khi mới nhậm chức năm 1997 để rồi bị "thay ngựa giữa dòng" giữa nhiệm kỳ . Thời ông Nông Đức Mạnh khi mới lên cũng đã nói đến chống tham nhưng sau đó giống như "mất điện" và chỉ có thể tồn tại cho đến hết nhiệm kỳ mà chẳng làm được gì. Liệu ông Trọng có đi theo vết xe của các người tiền nhiệm?

Nếu được phép đưa ra lời khuyên, nhân dân mong rằng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, với lợi thế đang ở thời kỳ chín mùi nhất của "nguy cơ tồn vong của đảng và chế độ" như ông nhận định, hãy hành động trước khi quá muôn. Và hành động nếu có của ông, trước hết nên bắt đầu từ những việc cụ thể của bản thân và nơi ông trực tiếp điều hành, ví dụ, cắt giảm và tinh giản biên chế của các cơ quan chuyên trách Đảng, tách quỹ lương khỏi hệ thống hành chính công, bãi bỏ một số chế độ đãi ngộ vô lý, v.v... Từ đó chắc chắn ông sẽ tạo nên những tác động có tính lan tỏa được đông đảo nhân dân ủng hộ và không thế lực nào có thể ngăn cản . Thực tiễn Việt Nam cho thấy nếu thực hiện quy trình ngược lại, tức là người đứng đầu chỉ nói và ra chỉ thị cho các ngành các cấp...thì hãy đợi đấy!!!, họ sẽ bị các nhóm lợi ích tìm mọi cách chống trả làm vô hiệu hóa mọi quyết định dù là rất đúng đắn và chân thành của người đứng đầu. Trong trường hợp đó, hậu quả đối với xã hội còn tệ hại hơn; nó giống như mở banh một khối ung nhọt nhưng không có cách cứu chữa vậy!

Trần Kinh Nghị


Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2012

Uống rượu ngày Tết

Ngày đầu năm một người bạn chuyển cho câu chuyện vui ngắn gọn, dí dõm...xin đăng lại để thêm nhiều người cùng đọc.



Thi hào Goethe pha rượu

J.W.Goethe là thi hào của nước Đức giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Ông nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết "Nỗi đau khổ của chàng Werther", với truyện thơ "Faust"(đều được dịch in ở Việt Nam ta) và nhiều câu thơ mang hàm ý triết lý sâu sắc. Nhiều bạn đọc chúng ta hẳn còn nhớ hai câu thơ có tính châm ngôn nổi tiếng của ông: Mọi lý thuyết đều màu xám/ Chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi.
Đây là câu chuyện xảy ra thời thanh niên của ông, chúng cho thấy ở nhà thi sĩ bậc nhất này khả năng châm biếm sắc sảo.
Lần ấy, Goethe đến một cửa hàng ăn uống. Quanh bàn ăn của ông là một đám thanh niên đang nhậu nhẹt, cười đùa một cách khả ố. Thấy vậy, Goethe vẫy người hầu bàn đến, gọi một ly rượu và nhắc thêm anh ta đưa kèm cho ông một ly nước lọc. Xong đâu đấy, ông lặng lẽ bình thản đổ lẫn hai thứ đó vào với nhau, uống từng ngụm một cách thản nhiên.
Thấy điệu bộ khác thường, cách uống rượu "kỳ quặc" của ông, đám thanh niên bất lịch sự kia đổ ra những tràng cười giễu cợt. Thậm chí, một người trong đám họ còn khệnh khạng bước lại bên nhà thơ, hỏi một cách thô bạo:
- Uống kiểu gì lạ vậy? Tại sao lại là rượu trộn lẫn với nước?
Hết sức bình tĩnh, Goethe trả lời:
Chỉ uống riêng nước, người ta sẽ trở thành câm lặng. Chính tôm cá dưới ao hồ đã chứng minh điều đó. Chỉ uống riêng rượu sẽ làm cho người ta trở nên thiếu văn hóa và thừa lố bịch. Chính các anh đã chứng minh điều đó. Vì không muốn thiếu văn hóa và thừa lố bịch như các anh, nên tôi uống rượu trộn lẫn nước như các anh thấy đó!

Còn đây là chuyện pha rượu ở VN
Tại một làng nọ, có ba anh chàng rủ nhau đi nhậu. Cả ba người đều nhắc nhở nhau rằng mỗi người nhớ đem theo phần rượu của mình để trộn chung vào uống cho đậm tình bằng hữu. Đến hẹn, anh thứ nhất tự bảo: “Mình đem chai nước lạnh này đi, trộn vào rượu của hai thằng kia, ai mà biết!” Anh thứ hai cũng mang theo chai nước vì nghĩ rằng chắc hai ông bạn mình đem rượu mạnh, pha loãng cho vơi. Đến lượt anh thứ ba cũng đem chai nước thay vì rượu như đã hứa vì nghĩ chắc rằng hai anh kia đã đem rượu theo. Tại quán rượu, cả ba anh hồ hởi pha chung ba chai lại với nhau.
Khai tiệc, ba anh cụng ly, khà một tiếng, và…đều khen “rượu chúng ta ngon thật”!
Nguồn: internet






Tìm kiếm Blog này