Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2011

Thế trận Việt Nam: Cần một tư duy mới

Phần I: Lịch sử cho thấy gì?
Dường như mỗi người Việt Nam sinh ra là biết mình có “hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước” và đồng thời rất đỗi tự hào về truyền thống chống ngoại xâm, từ giặc Ân-Thương, Tần, Hán, Đường, Nguyên-Mông, Thanh,  Pháp,  Nhật, Mỹ, Tàu Tưởng và CHND Trung Hoa. Phải chăng đó là do thế đất trời hay vận mệnh mà ra? Nhưng có một điều đã rõ: Người Việt có một kẻ mà dù muốn hay không vẫn phải chung sống cận kề bên nhau đời đời kíp kíp, đó là nước Trung Hoa luôn tự phong là “vương triều giữa thiên hạ”(the Middle Kingdom). Với cái "mệnh trời" tự phong đó, kể từ thời sơ khai, Nhà Hạ (từ thiên niên kỷ thứ II TCN) đã có xu hướng bành trướng lãnh thổ về hướng Nam nơi vốn là thánh địa của hàng trăm tộc người “Bách Việt”.  Trong quá trình kéo dài hàng ngàn năm đó các bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt đã lần lượt bị Hán tộc thôn tính và đồng hóa, chỉ còn lại Việt Nam tuy không bị đồng hóa nhưng đã bị dồn đẩy về phía Nam và bị các triều đại phong kiến Phương Bắc thay nhau đô hộ trong 1.000 năm liền. Và từ bấy đến giờ họ chưa hề ngưng giấc mộng bành trướng về phương Nam.
Có ít nhất là 4 kinh nghiệm có thể rút ra từ lịch sử:
Một là, mỗi khi Vương triều Phương Bắc thống nhất và mạnh lên thì họ đem quân sang chinh phạt Việt Nam (bắt đầu  bằng cuộc xâm lược quy mô lớn đầu tiên diến ra từ năm 218 đến 208 TCN giữa thời kỳ hoàng kim của Nhà Tần). Đôi khi trong những cơn tức giận, họ cũng mang quân “đánh hàng xóm”, điển hình là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 mà họ nói “để dạy cho Việt Nam một bài học”. Cho đến nay chưa có gì để đảm bảo rằng cách hành xử này sẽ không lặp lại.
Hai là, kẻ thù thường triệt để khai thác những thời điểm có bất hòa, bất ổn trong nội bộ Việt Nam để khởi binh xâm lược. Đành rằng hễ khi nào bị xâm lược, người Việt Nam lại gác lại những bất hòa, bất ổn trong nội bộ để tập trung chống kẻ thù, nhưng đây là một  nghịch lý, bởi lẽ những chu kỳ chiến tranh lặp đi lặp lại ắt gây ra hậu quả nặng nề truyền kiếp đối với dân tộc ta. Tại sao không  phòng ngừa tránh để xảy ra xâm lược rồi mới đoàn kết ?    
Ba là, dù thắng, bại nhà nước Việt Nam cũng chưa bao giờ tách hẵn khỏi “vòng cương tỏa” của Vương triều Phương Bắc.  Tuy vậy phía đối phương chưa hề tỏ ra biết trân trọng quốc sách hòa hảo, phục thiện đó của dân tộc Việt Nam; trái lại còn coi đó là cử chỉ yếu hèn, nhu nhược...!  
Bốn là, các kẻ ngoại xâm không liền kề biên giới như Nguyên-Mông, Pháp, Mỹ, Nhật   sau khi bại trận đều rút khỏi lãnh thổ của Việt Nam mà không chiếm được tất đất nào, nhưng nước láng giềng Phương Bắc dù bại trận vẫn chiếm đất đai và dồn đẩy Việt Nam về phía Nam. Ngày nay điều này vẫn đang diễn ra và còn gay gắt hơn với tham vọng độc chiếm Biển Đông của họ.  
Phần II: Tương quan lực lượng
Trên đây là những gì có thể thấy từ lịch sử và cũng là những kinh nghiệm thiết thực để  rút ra bài học cho hiện tại và tương lai.  Thiết nghĩ giờ đây trong bối cảnh thế giới đã hoan toàn khác xưa, đã đến lúc người Việt Nam cần suy ngẫm lại về cái triết lý bạn / thù và đồng minh, để từ đó có những sự điều chỉnh hợp lý nhằm thay đổi cục diện đang ngày càng trở nên bất lợi cho mình.
Để làm được điều này trước hết ta hãy thử xem xét mối tương quan so sánh lực lượng trong bối cảnh thế giới ngày nay.
Trung Quốc bao giờ cũng là một cường quốc với tham vọng bành trướng...
Có thể nói, kể từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất đất nước năm 256 TCN, Trung Quốc đã là một cường quốc đầy tham vọng lãnh thổ. Ngày nay tham vọng đó càng trở nên cấp bách khi “con sư tử” đã thức giấc và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.  Đi kèm với sự lớn mạnh đó là mối nguy cơ đối với các nước láng giềng, đặc biệt đối với Việt Nam.
Khoan hãy bàn chuyện đúng, sai về chiến lược của giới lãnh đạo Trung Quốc, điều đã rõ  là họ đang nóng lòng muốn mau chóng đạt mục đích độc chiếm Biển Đông (vì biết để càng lâu càng khó). Về quân sự họ gấp rút tăng cường lực lượng hải quân cho mục đích bành trướng trên biển; về đối ngoại đã chính thức đề trình LHQ sơ đồ “ đường lưỡi bò”  bao trọn 80% diện tích Biển Đông, trong đó “lẹm” sâu vào lãnh hãi  của Việt Nam và các nước ven bờ khác đồng thời tuyên bố  đó là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc (như đối với Đài Loan và Tây Tạng vậy!?). Những bước đi của chính quyền Trung Quốc xuất phát từ chiến lược được tính toán lâu dài với khát vọng độc chiếm Biển Đông để làm  cửa ngõ thông ra thế giới. Điều mĩa mai là , một đất nước vốn chỉ bằng một vết dầu từ thời Nhà Hạ nhờ xâm lược mà nay trở thành “khủng” như Trung Quốc lại còn than phiền bị các nước nhỏ xâm chiếm đất đai và biển đảo…, nên giờ đây phải “giành lại”(?) Chưa cần nói đến hành động, chỉ nghe cách tư duy trái ngược với xu hướng thời đại như thế đã thấy chủ nghĩa bành trướng Đại Hán nguy hiểm như thế nào. Nó nhắc ta nhớ lại thuyết Đại Đức của Hít le hồi đầu thế kỷ trước.                
Riêng Việt Nam, do vị thế địa chính trị, lại một lần nữa trở thành “vật cản’ đối với chủ nghĩa bành trướng nói trên . Đó là "vạch nối" không đáng có sau lịch sử 5.000 năm ân oán giữa Hán tộc và Việt tộc. Nhưng có điểm khác là: Giờ đây các nước Đông Nam Á xa hơn  cũng bắt đầu trực tiếp cảm nhận áp lực của chủ nghĩa bành trướng Phương Bắc ; và do lợi ích thiết thân của mình, Mỹ và hầu hết các  cường quốc khác cũng không thể chấp nhận. (Ảnh minh họa đường “lưỡi bò” đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông do phía Trung Quốc đơn phương công bố)
…Trong một thế giới đã thay đổi          
Cần nhắc lại rằng thế giới ngày nay đã hoàn toàn khác với các thời kỳ tiền sử cũng như thời phong kiến - thực dân. Đó là sự ra đời của hàng trăm quốc gia dân tộc, trong đó mọi quốc gia dù lớn nhỏ đều có thể tồn tại và phát triển với tư cách bình đẳng thông qua các cơ chế hoạt động của các tổ chức quốc tế, điển hình là Liên Hợp quốc (UN) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được chi phối bới các “luật chơi” chung như Luật Biển, các công ước về chiến tranh và hòa bình, các luật lệ môi trường, thương mại v.v…Các mối giao lưu quốc tế đã trở nên vô cùng nhanh nhậy trên bình diện đa phương, đa chiều và tùy thuộc lẫn nhau một cách sâu sắc. Trong mối quan hệ đan xen nhiều tầng nấc như vậy, bất cứ hành động xâm lược phi pháp nào giữa các quốc gia cũng nhanh chóng bị phơi bày trước công luận quốc tế.   
Quan niệm về bạn/ thù và đồng minh cũng khác xưa. Nếu như trước đây một nước nhỏ yếu thường sớm muộn cũng bị một nước láng giềng lớn mạnh thôn tính thì ngày nay nhiều nước nhỏ vẫn có thể tồn tại độc lập và phát triển phồn thịnh (như trường hợp Thụy Sĩ, Áo, Phần lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Israel, và ngay cả những vùng lãnh thổ nhỏ bé như Hồng Kông, Ma Cau nằm lọt thỏm trong lòng Đại lục). Đó là nhờ họ biết vận dụng những nhân tố mới của thời đại để giảm thiểu sự lệ thuộc vào một cường quốc láng giềng bằng, chẳng hạn dựa vào đồng minh ở xa nhưng có sức mạnh và có cùng lợi ích (như trường hợp Hàn Quốc và Đài Loan, Phillipin dựa vào  Mỹ, v.v…). Nếu như trước đây những đội quân đến từ các thảo nguyên nơi có giống ngựa tốt thường là những đội quân hùng mạnh thì ngày nay sức mạnh phụ thuộc chủ yếu vào các loại vũ khí công nghệ cao được đặt bất cứ vị trí nào trên mặt đất hoặc trong đại dương. Nếu biết kết hợp những yếu tố mới của thời đại một  quốc gia nhỏ yếu có thể tùy theo vị trí địa chính trị và mục đích tự vệ của mình để tính toán việc chọn bạn/ thù và đồng mình mà không nhất thiết phải phụ thuộc  một cường quốc láng giềng.  
Nếu trong quá khứ các cuộc xâm lược thường nhằm mục tiêu chiếm đất đai, của cải trên đất liền thì ngay nay các mục tiêu biển đảo đã trở nên hấp dẫn hơn . Cùng với “hấp lực” này, hải quân các nước không chỉ có chức năng vận chuyển và tác chiến trên biển mà còn đóng vai trò của lực lượng chiếm đóng giữa biển khơi. Cũng do đó, các quốc gia có vị trí án ngữ trên các tuyến hàng hải chiến lược hoặc chứa đựng nhiều tài nguyên biển trở thành vừa đối tượng tranh giành, vừa là đối tác quan trọng.  
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin cũng là một yếu tố tác động không nhỏ đến tư duy quốc phòng trong thời hiện đại. Trước hết nó thúc đẩy quá trình “minh bạch hóa” tiềm lực quân sự của các nước lớn đồng thời hạn chế tình trạng chạy đua vũ trang một cách lãng phí. Với sự phổ cập rộng rãi công nghệ thông tin,  những âm mưu xâm lược dù được che dấu bằng bất cứ thủ đoạn nào cũng dễ bị phơi bày trước công luận. Nếu như trong quá khứ chỉ một số ít người nắm giữ thông tin tuyệt mật về quốc phòng hay các quyết định về chiến tranh và hòa bình thì giờ đây những thông tin loại này có thể bị tiết lộ và “khuếch tán” nhanh chóng trên internet. 
Tóm lại, thế giới ngày nay đưa lại nhiều lợi thế cho các quốc gia nhỏ yếu để tự vệ hơn là trong quá khứ. Đó chính là đặc điểm mới mà các quốc gia nói chung, đặc biệt các quốc gia nhỏ yếu hơn, có thể khai thác cho mục tiêu độc lập và phát triển của bản thân.
Mỹ trở lại Đông Nam Ấ, cơ hội hay thách thức?
Mọi người hẳn còn nhớ lời cảnh báo về “khoảng trống quyền lực” tại Đông Nam Á trong sự vắng bóng Mỹ sau thất bại chiến tranh Việt Nam 1975. Rốt cuộc không ai khác, chính Trung Quốc đã âm thầm ra sức lấp đầy khoảng trống này. Đó quả là “cơ hội  vàng” đối với họ, ít ra là cho đến khi Mỹ quyết định trở lại với lời tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton đưa ra tại Hà Nội hồi tháng 7/2010, trong đó coi Biển Đông là “lợi ích quốc gia“ của Mỹ.
Có thể nói, sự trở lại của Mỹ lần này trước hết xuất phát từ sự tính toán lợi ích của nước Mỹ trong ván cờ quyền lực quốc tế nói chung, và với Trung Quốc nói riêng; họ không trở lại chỉ để giúp đỡ bất cứ một nước nào, kể cả Việt Nam. Tuy nhiên sự trở lại của Mỹ vào lúc này dù muốn hay không đang tạo nên một cơ hội cho các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, để đối phó với thế lấn lướt trong âm mưu độc chiếm Biển Đông của một nước Trung Quốc khổng lồ đày tham vọng bành trướng. Sự trở lại của người Mỹ lần này không “thầm lặng”; họ cần sự ủng hộ của dư luận ASEAN và quốc tế. Cũng vì những đặc điểm nói trên, sự trở lại của Mỹ giờ đây được dư luận Mỹ và các nước Đông Nam Á đồng thuận với mức độ cao; có lẽ chỉ Trung Quốc là không hài lòng, thậm chí còn “cay cú”.        
Đối với Việt Nam, đây không phải là lần đầu phải lựa chọn bạn/ thù và đồng minh. Chỉ khác là trong một bối cảnh hoàn toàn khác so với thời kỳ phong kiến thực dân và cũng khác thời kỳ “chiến tranh lạnh” khi người Mỹ vào Đông Nam Á chủ yếu để ngăn chặn “nguy cơ Chủ nghĩa Cộng sản”, nhưng giờ đây họ trở lại nhằm ngăn chặn nguy cơ của  một nước Trung Quốc đang thách thức vị thế hàng đầu của nước Mỹ.
Do đó, có thể nói, nếu trong những năm 1940 Tổng thống Truman đã vì quá mù quáng với chủ nghĩa chống cộng mà khước từ động thái mời chào bang giao hữu nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì nay Tổng thống Obama chắc sẽ không lặp lại điều đó. Cũng đã có ít nhất vài ba cơ hội khác mà hai nước đã "đánh mất", đó là Hiệp định Geneve 1954, Hiệp định Paris 1973, và sau giải phóng miền Nam 1975. Hiện nay cũng là một cơ hội.   Nói cách khác, Việt Nam lúc nào cũng có “cái giá” của mình. Có thể thấy trong thế trận hiện nay tại khu vực Châu Á -TBD nói chung và tai Đông Nam Á nói riêng, Việt Nam và Mỹ đang có nhiều lợi ích tương đồng hơn bất cứ lúc nào trong quá khứ. 
Tuy nhiên, cũng như trong quan hệ hôn nhân, quan hệ đồng mình cần một sự tự nguyện và đồng thuận cao. Về điểm này, thiết nghĩ người Việt Nam cũng không nên quá nhẹ dạ đến mức kêu gọi nhau “đi với Mỹ” như ông Cù Huy Hà Vũ, và một số người đang làm, nhất là nếu tính đến thực thể chế chính trị hiện tại của Việt Nam . Lại cũng không thiếu gì những kinh nghiệm cay đắng về khả năng thỏa hiệp giữa các nước lớn trên lưng các nước nhỏ. Có lẽ trước mắt một sự thỏa hiệp lỏng lẻo và có điều kiện giữa hai bên là lựa chọn "khả thi" nhất. 

Phần III: Sự chọn lựa nào cho Việt Nam?
Không nhất thiết phải đứng về một bên chống một bên  
Từ kinh nghiệm của 1.000 năm Bắc thuộc, rồi 100 năm Pháp thuộc và gần 50 năm chiến tranh chống lại các thế lực đế quốc, phát xít và bành trướng, Việt Nam dù muốn hay không vẫn luôn bị đặt vào thế phải chọn bạn, thù và đồng minh nhằm mục tiêu đánh thắng kẻ thù để giành lại và bảo vệ nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Có thể nói Việt Nam đã thành công trong việc lựa chọn bạn/thù  trong  quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây. Tuy nhiên, những lựa chọn đó là “vạn bất đắc dĩ” khi buộc  phải đứng về bên này chống bên kia, và do đó, đằng sau những thành công luôn tiềm ẩn những nguy cơ từ nước  láng giềng Phương Bắc. Đó là một sự thật nghiệt ngã, đôi khi rất trớ trêu. Chẳng hạn trong thời kỳ trước và sau giải phóng miền Nam năm 1975, trong bối cảnh mâu thuẩn Xô-Trung ngày càng căng thẳng và Mỹ-Trung đang  xích lại gần nhau, Việt Nam một lần nữa rơi vào thế “quân tốt” trong ván cờ của hai siêu cường Trung, Mỹ. Điều tệ hại đã xảy ra khi Mỹ, Trung bắt tay nhau trong qúa trình đàm phán bí mật Thượng Hải năm 1972,  nhân cơ hội này phía Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, rồi đơn phương phát động chiến tranh  trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam vào tháng 2/1979.  
Thực tế là như vậy. Nhưng có điều trớ trêu là, ông bạn láng giềng Phương Bắc lúc nào cũng chỉ chăm chăm trách cứ Việt Nam “vong ơn bội nghĩa...”, và dường như không muốn biết rằng, nếu xem xét vấn đề một cách ngọn ngành thì chỉ có người Việt Nam lúc nào cũng trước sau như một, đã hy sinh sức người, sức của và thời gian giúp Trung Quốc đạt được những mục đích chiến lược của họ kể cả những tình huống không có lợi cho Việt Nam. Phải chăng người Trung Quốc không bao giờ thỏa mãn chừng  nào cái “vành đai” phía Nam chưa nằm trọn vẹn trong vòng cương tỏa của họ? 
Có thể nói với trạng thái quan hệ Việt-Trung như lâu nay không có gì để đảm bảo rằng những hành động bất bình đẳng sẽ lại không tái diễn. Đó  chính  là nguy cơ trực tiếp đối với Việt Nam. Do đó. nếu nói rằng tình huống buộc người Việt Nam phải lựa chọn, thì đó chính là phương châm đã được xác định từ Đại hội Đảng lần thứ VI: “Sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước”. Chỉ tiếc là, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong 15 năm qua  phương châm đó chưa được thực hiện một cách đầy đủ và nhất quán bằng những biện pháp cụ thể; có lúc có nơi còn đi chệch hướng.
Tuy nhiên, phải chăng chậm còn hơn không ? Giờ đây đã đến lúc để Việt Nam đoạn tuyệt với cách thức chọn  bạn-thù và đồng minh theo kiểu đứng về một bên chống lại một bên, bằng cách cởi bỏ tâm lý lo sợ và lệ thuộc bằng "ý thức hệ" hoặc dưới bất cứ dạng nào vào  nước lớn láng giềng Phương Bắc, đồng thời không tự hạn chế trong quan hệ với Mỹ và các cường quốc khác vì mục tiêu tối thượng là bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Để làm được điều đó, trước hết Việt Nam cần dựa vào sức mình là chính, phát huy mạnh mẽ tinh thần độc lập tự chủ, tự cường trước mọi hành động và âm mưu xâm lấn của nước ngoài. Đó mới là cách tư duy hợp lý trong bối cảnh và tương quan lực lượng quốc tế và khu vực hiện nay, có tính đến  thực thể chính trị hiện tại của Việt Nam. Trong quá trình vận động, điều gì đến ắt sẽ đến. Hy vọng rằng Việt Nam sẽ thắng nhờ những nước cờ tiếp theo chứ không ở những nước đã đi.  

Yếu tố quyết định là nội lực và sự đoàn kết dân tộc
Có thể nói, đối với Việt Nam, việc lựa chọn bạn/thù và đồng minh tuy rất quan trong nhưng cũng chỉ là một mặt của toàn bộ chiến lược bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Lựa chọn vô cùng quan trọng là nội lực của đất nước, đó là sức mạnh tổng hợp mà trong đó khối đoàn kết toàn dân giữa vai trò quan trọng nhất.  
Như đã nói trên đây, bài học lịch sử của  hàng ngàn năm giữ nước cho thấy khi nào xảy ra tình trạng vua quan tự mãn, quan liêu, tham nhũng xa rời nhân dân khiến lòng dân oán giận, bất bình,...  ắt dẫn đến tình trạng lục đục mất đoàn kết nội bộ, và đó là nguy cơ cho ngoại xâm tràn vào. 
Thiết nghĩ, tình trạng “bất hòa”, “bất ổn”, “bất tín”  ít nhiều đã xuật hiện và đang diễn biến khá phức tạp  trong những năm tháng gần đây. Dư luận nhân dân ngày càng bức xúc trước những biểu hiện tham nhũng, năng lực yếu kém bộc lộ ở tất cả các cấp độ của hệ thống công quyền. Tất cả đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Tình trạng này đã được các văn kiện Đại hội Đảng ghi nhận là “đang đe dọa sự tồn vong của chế độ”. Thiết nghĩ đây là một vấn đề mà dân tộc ta phải bằng mọi cách  khắc phục càng sớm càng tốt để không lặp lại tình trạng như đã từng xảy ra trong quá khứ lịch sử.
Dựa vào thế trận “chiến tranh nhân dân”
Kinh nghiệm cho thấy chiến tranh nhân dân luôn luôn là nhân tố quyết định tạo nên sức mạch vô địch của nền quân sự Việt Nam. Phải nhắc lại điều này bởi lẽ nó dường như đã bị lãng quên trong tư duy chiến thuật trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo trong thời gian qua; thậm chí có tình trạng dân không được biết, không được bàn…,  trái lại còn bị cấm đoán. Qua ý kiến phản hồi của dân chài Quãng Ngãi và miền Trung chothấy  sự cấm đoán mang tính “bao cấp” về tư tưởng chính trị như vậy không chỉ tự hạn chế sức mạnh đấu tranh của ta mà còn làm chia rẽ nội bộ chỉ có lợi cho âm mưưu của bọn bành trướng. Còn đó kinh nghiêm “xương máu” của thời kỳ trước cuộc chiến tranh biên giới 1979: Trong khi phía đối phương chủ động tung tin “sẽ đánh Việt Nam” để thăm dò dư luận thì phía ta lại chủ trương giữ kín thông tin trong nội bộ, không thông báo cho dân. Hậu quả khi quân giặc tiến quân vào, không chỉ từng người dân mà cả cán bộ, chiến sĩ đều bị bất ngờ, bị động. Liên quan đến chủ đề này, được biết ông Lưu Văn Lợi- nguyên chuyên gia cao cấp về biên giới  đã có đưa ra một đề xướng từ năm 2009 và được Quốc hội và dư luận tán đồng, đó là cần phát động và triển khai thế trận chiến tranh nhân dân trên vùng biển đảo của đất nước. Thiết nghĩ giờ đây cần“phục hoạt" lại kế hoạch đó.

Tránh chạy dua vũ trang một cách dàn trải, ưu tiên vũ trang phòng thủ từ đất liền
Trong số các bên tranh chấp Biển Đông, Việt Nam là nước án ngữ gần như toàn bộ bờ Tây của biển này. Với địa thế và địa hình độc đáo như vậy, không có lý do gì để không tính đến một chiến thuật phòng thủ độc đáo. Đó là phòng thủ từ đất liền là chính (tất nhiên với mức độ vũ trang cần thiết về hải quân và không quân với  khả năng của nền kinh tế nước nhà). Với địa hình địa thế ven biển của Việt Nam, đây có thể là một giải pháp lý tưởng mà các nước khác quanh Biển Đông không thể có.
                                               Hình chỉ có tính chất minh họa

Chiến thuật này không chỉ phù hợp về  địa thế mà còn ít tốn kém hơn nhiều so với các phương án chiến thuật phòng thủ trên biển hoặc trên không.  Chưa cần tính toán cụ thể , ta cũng có thể ước đoán kinh phí  cho một cỗ đại pháo tầm xa hay một dàn tên lữa “đất đối biển” chắc chắn thấp hơn  so với một tàu chiến, và thấp hơn nhiều so với một tàu  ngầm hay tàu sân bay. Độ chính xác hỏa lực cũng không thua kém gì nhau. Khả năng ngụy trang, bảo vệ  tương đương so với các phương tiện trên biển. Ngoài ra nó có ưu thế từ đất liền khống chế hầu như toàn bộ 1/2 phía Tây của Biển Đông. Yếu điểm (nếu có) của chiến thuật này là chỉ mạnh về phòng thủ, không có khả tấn công và chiếm giữa trên biển. Tuy nhiên nó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chính trị của Việt Nam với tư cách người tự vệ. Nó có tác dụng răn đe  và khống chế  (tương tự như những cổ pháo của Đan Mạch từng một thời khống chế eo biển Ban Tích ). 
 (Trên đây chỉ nêu ra một ý tưởng xét về mặt địa chính trị và tương quan so sách lực lượng tổng hợp giữa các bên liên quan.  Để cụ thể hóa, cần có sự tham gia của các chuyên gia vũ khí và chiến thuật gia quân sự).
Ngoại giao cởi mở, công khai, minh bạch
Ngoại giao luôn là một bộ phận cấu thành quan trong bậc nhất trong sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Vậy thì không có lý do gì khi đối phương liên tục xâm phạm chủ quyền biển đảo, xâm nhập sâu vào ngư trường của ta để bắt cướp, đâm thủng tàu thuyền của dân chài đang làm ăn bình thường mà mãi vẫn chỉ có “tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao” với những từ ngữ hết sức phản cảm: “nước lạ”, “tàu lạ”….(?)    
Thiết nghĩ đã quá đến lúc cần thay đổi cách làm ngoại giao cứng nhắc trong “vòng kim cô” của những chỉ đạo chính trị từ cấp cao nhất của "hai đảng anh em". Suốt thời gian qua trong khi phía ta luôn chủ trương nghiêm túc và kiềm chế..., thì phía đối phương ra sức lấn chiếm trên thực địa đồng thời chuẩn bị lập luận pháp lý và  tuyên truyền tranh thủ dư luận,  và trên thực tế họ đã đảo lộn chiều hướng dư luận một cách có lợi cho họ.  Không có cách nào khác là ta nên khẩn trương chuyển sang phong cách thích hợp, đó là ngoại giao cởi mở, công khai, minh bạch vốn  là lợi thế của ta - nước duy nhất có cơ sở pháp lý lịch sử và tư cách chính nghĩa trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của ngày nay.

Thay cho lời kết
 Việt Nam với hơn 80 triệu dân là một nước trung bình lớn, với diện tích hơn 300.000  km2 có  hai vựa thóc phì nhiêu ở hai đầu đất nước, có rừng có biển, lại sở hửu một “mặt tiền” dài hơn 3.000 km quay ra Biển Đông, hoàn toàn không thể mãi là một nước nghèo yếu. Nếu biết duy trì  khối đoàn kết nội bộ thật sự vững bền trên cở sở đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và có sự lãnh đạo sáng suốt của môt bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự do dân, vì dân thì đất nước này sẽ mãi mãi không kẻ thù nào có thể đánh bại ./.

Tài liệu tham khảo và ghi chú
- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia;
- Đại Việt sử ký của Trần Trọng Kim  
 -Phát biểu của Đặng Tiểu Bình, Vương Hàn Lĩnh;
-Các bài viết của các nhà nghiên cứu Dương Danh Dy , tướng Nguyễn Trọng Vĩnh 
- Quyễn” Giấc mơ Trung Quốc-Tư duy nước lớn về định vị chiến lược trong thời đại hậu Mỹ” của tác giả: Lưu Minh Phúc- , Giáo sư, Giám đốc Học viện Nghiên cứu xây dựng Quân đội thuộc Đại học Quốc phòng Trung Quốc, xuất bản đầu năm 2010 đã được TTXVN dịch ra tiếng Việt;
- Phát biểu của Đới Bình Quốc- Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc”năm 2010:   ASEAN là một nhân tố bị chia rẽ và hướng nội, thậm chí còn thiếu thống nhất hơn EU.  Chúng ta (tức là Trung Quốc) có tầm ảnh hưởng rất lớn ở Đông Nam Á bởi sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, các thỏa thuận thương mại tự do và khả năng đổi hướng các cuộc thảo luận của ASEAN thông qua Campuchia, Lào và đôi khi cả Philippines”.
-Bài   Hu Jintao’s visit and the SouthChina Sea: “Whose/Hu’s Core Interest?”  của  Ernest Z. Bower ngày 11/01/2011.        
- Văn kiện  Kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban CHTW Khóa 9 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ngày  10/4/2006;  tham khảo các văn kiện Báo cáo Đại hội Đảng lần thứ  XI và một số ý kiến đóng góp xây dựng Văn kiện này.


Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

Lời khuyên của con ếch

 Ở nước ta trong những năm gần đây có một sự thật chưa được thừa nhận,  đó là tâm trạng bất bình, bất an, bất tín, bất phục,... . Nói vậy có quá không? Không quá, nhưng hơi chậm. Chậm là vì hậu quả của nó đang lấp ló đâu đó như sóng thần trong khi  nhiều người vẫn làm như không nghe, không biết, không thấy…Nhưng tôi tin rằng những ai đã trải qua  trọn thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng  lại đất nước  đều không thể thản nhiên nhìn những thành quả của họ bị sóng thần cuốn trôi.       

Xin miễn kể lể dài dòng, bởi lẽ  ai cũng nghe, cũng thấy, cũng biết cả rồi; nếu nói ra lại bảo “biết rồi, khổ lắm nói mãi!” Mà có nói,  chắc cũng không thể nào hay và trúng bằng các vị tiền bối “khai quốc công thần” hay các “cựu chiến binh” và “cựu lãnh đạo”. Tôi xin chỉ nói với vai trò của một con ếch ngồi đáy giếng với bản năng dự báo thời tiết mà thôi. Và  sẽ chỉ nói càng ngắn gọn càng tốt… để còn kịp chuẩn bị đối phó với sóng thần !

Sai lầm đường lối là việc không thể tránh khỏi và có thể tha thứ được trong những hoàn cảnh nhất định, đó là trong thời kỳ đầu sau giải phóng miền Nam năm 1975 mặc dù với những sai lầm đó đã để lại cho đất nước và nhân dân ta những hậu quả không bao giờ khắc phục được. Nhưng tình trạng sai lầm kéo dài, lặp đi lặp lại  do "lỗi hệ thống" lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Dưới đây xin điểm qua một số biểu hiện có tính "đại diện" cho những sai lầm như thế ở nước ta trong mấy chục năm gần đây.

 Đó là sự di chuyển ồ ạt của dòng người từ nông thôn đổ vào các đô thị mà nhiều người ngộ nhận là một hệ quả của  quá trình công nghiệp hóa đất nước!. Nhưng không, đó là hậu quả của một sai lầm nghiêm trọng trong chính sách kinh tế dài hạn mà cùng vói nó là hàng loạt những hậu quả nhãn tiền: ngành nông nghiệp truyền thống bị lãng quên trong khi các đô thị nhanh chóng bị "nông thôn hóa"; nạn thất nghiệp và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng khó cứu vãn, v.v.... Để chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng, Nhà nước đã chủ trương "tranh thủ " viện trợ nước ngoài như một ưu tiên quốc sách trong khi các nguồn nội lực không được coi trọng hoặc sử dụng không hợp lý: Thay vì đầu tư để phát triển các cơ sở sản xuất, người ta chỉ chú trọng một vài ngành khai khoáng như dầu thô và một vài loại quặng "ăn liền" như than đá, bauxit,  đặc biệt đầu tư qúa mức cần thiết cho lĩnh vưc bất động sản . Những chủ trương sai lầm này này đã lập tức bị các nhóm lợi ích tham lam ra sức lợi dụng khiến cho nguồn khoáng sản và đất dai mau chóng bị khánh kiệt. Thay vì khẩn trương tiến hành tư nhân hóa và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng thị trường, thì người ta lại duy trì và củng cố những tập đoàn "anh cả đỏ"- một việc làm không chỉ trái với với quy luật kinh tế mà còn trái với bản thân  phương châm đổi mới của Đảng đã đề ra. Hậu quả là những tập đoàn nhà nước to xác biến thành những cỗ máy tiêu "tiền chùa" với cả vốn lẫn lời chui vào túi cá nhân bọn tham nhũng. Thế nên chỉ sau vài đợt kiểm toán đầu tiên đã phát hiện vụ bê bối Vinashin khiến dư luận khẳng định rằng "sờ đâu cũng thấy tham nhũng", và lòng tin của nhân dân đã thực sự hoàn toàn bị "đánh cắp" từ sau  vụ bê bối này. Công cuộc cải cách hành chính thì sao? Hãy nhìn biên chế của các cơ quan  công quyền ngày một  phình to trong khi chúng dường như chỉ có thể làm cái công việc “bắt cóc bỏ đĩa” mà không xong. "Công nghiệp hóa" ư?  Vẫn chỉ là một thuật ngữ trống rỗng khi mà toàn bộ nền kinh tế đất nước vẫn phải sống dựa vào hàng nhập khẩu từ cái đinh vít cho đến chiếc máy bay. Tất thảy khiến ta nhận ra rằng đất nước hiện nay không phải trong “giai đoạn quá độ tiến lên CNXH" mà    tình trạng tạm thời, tạm bợ với vô số những chiếc bong bóng sắp vỡ tung. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là tình trạng bất cập  liên quan đến chủ trương chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng vốn thường được coi là "phạm húy" nếu đem ra bàn luận. Sự bức xúc của dư luận đã đến mức bùng phát khi phía Trung Quốc liên tục trấn cướp tàu cá của dân chài miền Trung nhưng các phương tiện thông tin đại chúng chính thức vẫn gọi là "nước lạ", tàu lạ".
      
Điều cần biết là trong bối cảnh đất nước hiện nay người dân suy nghĩ gì? Chẳng khó khăn lắm để biết nếu ta  làm một chuyến vi hành ngược xuôi Nam Bắc và bắt chuyện với mọi người sẽ thấy không dưới 90% là những lời ca thán. Đừng nghĩ rằng khi người tham gia giao thông cáu bẳn,  gây sự...chỉ đơn giản vì bị va chạm; đó chính là biểu hiện của  trạng thái tư tưởng bất ổn bên trong đầu họ.   Sự bất bình cũng diễn ra gay gắt ngay ở giai tầng cao hơn của đất nước, đó là giới quan chức và  học giả, trí thức. Chỉ cần qua kênh Quốc hội (dù còn nhiều khiếm khuyết) và qua kênh   thông tin đại chúng chính thức cũng dễ dàng nhận thấy cuộc đấu tranh giằng co đang hồi khó phân thắng bại. Gần đây có chuyện "vừa buồn, vừa cười"  khi dư luận kháo nhau: ”Ai là lực lượng phản động?”, “ai là thế lực thù địch?” và "ai đang diễn biến hòa bình?" Thiết nghĩ không còn biểu hiện bất bình nào sâu sắc hơn thế!  
    
Thực tế buộc ta phải suy diễn: Phải chăng đang có một sự rạn nứt của niềm tin vốn là cơ sở để  hun đúc nên  khối đoàn kết dân tộc- cội nguồn của sức mạnh để “đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” trong suốt chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc vừa qua? Niềm tin ấy, khối đoàn kết ấy đang mất đi nhanh chóng, và những thành công cũng ngày một hiếm hoi, thậm chí đã và đang thay thế bằng những thất bại.  

Đó là sự thật dù phũ phàng. Nhưng mỗi người ở cương vị khác nhau, xuất phát từ lợi ích khác nhau hoặc hoàn cảnh khác nhau, nhìn nhận sự thật đó một cách khác nhau. Nếu như những sai lầm trước đây đã buộc  nhiều người Việt Nam dù không muốn đã phải bỏ đất nước ra đi, thì những sai lầm ngày nay lại buộc nhiều người Việt Nam dù không muốn cũng phải lên tiếng .  Khác biệt là một phạm trù quy luật, nhưng khác biệt theo cái cung cách mà ta đang thấy  trong thời gian gần đây là hoàn toàn không bình thường. Nó không chỉ là sự bất đồng quan điểm thông thường mà là sự bất bình, sự phẫn nộ.  Nó báo hiệu một nguy cơ bất ổn xã hội và, xa hơn, là sự tồn vong của quốc gia mà những ai có chút lòng trắc ẩn chắc chắn đều cảm thấy lo lắng. Nếu quan sát kỹ lưỡng hơn ta sẽ nhận thấy tình hình nói trên phảng phất bóng dáng của tình hình ở  những chu kỳ trước đây trong lịch sử dân tộc, không xa lắm là thời Hậu Lê (1780-1789) và gần nhất là thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nhân loại đã đúc kết về tầm quan trọng của sự gắn kết (đoàn kết) giữa những con người cùng chí hướng, coi đó như nhân tố chính yếu của thành công hay thất bại bất luận khi làm việc gì. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những câu đúc kết rất thiết thực đối với nước ta là: “Dễ mọi bề không dân cũng chịu, khó mọi bề dân liệu cũng xong” và ”Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công” v.v…

Lịch sử đất nước ta là minh chứng hùng hồn về quy luật mật thiết giữa nhân tố đoàn kết và sự tồn vong. Nhưng lịch sử nước ta vẫn còn đó một sự thật chua xót: Hễ khi nào có ngoại xâm thì toàn dân đồng lòng cùng vua quan chống giặc. Nhưng khi thái bình rồi thì vua quan lại trở nên hư đốn, gian tham khiến lòng dân oán hận, vận nước suy vong. Biết vậy mà không mấy triều đại từ cổ chí kim không mắc phải.

Ứng nghiệm hiện tượng lịch sử nói trên vào hoàn cảnh ngày nay ta thấy gì? Nếu kể cả thời kỳ “tiền khởi nghĩa 1945” thì chính thể hiện nay của đất nước đã trải qua gần 70 năm tương đương với một vòng đời người. Trong đó chỉ 1/2 thời kỳ đầu có khối đoàn kết dân tộc thực sự do nhu cầu đánh thắng các kẻ thù xâm lược.  Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi trong quãng thời gian sau khi đất nước đã yên bình. Nhiều người không che dấu nỗi băn khoăn: Liệu lịch sử sẽ lặp lại cái chu kỳ  muôn thuở? Và người ta bắt đầu  nghĩ về nguy cơ giặc ngoại xâm. Nhưng chẳng lẽ lại phải đợi giặc ngoại xâm “giúp” ta đoàn kết lại?  Phải chăng đó là một nghịch lý hay là một lời nguyền của lịch sử?  

Con ếch ngồi đáy giếng cũng phải kêu lên rằng chẳng phải vì lời nguyền nào cả, mà chính là một nghịch lý do chính ta gây ra ("ta" ở đây là cả nhân dân và giai tầng lãnh đạo). Dân lúc nào cũng chỉ là dân; chỉ những người lãnh đạo mới nắm giữ vai trò quyết định đối với  sự tồn - vong của dân tộc. Vấn đề là liệu họ giờ đây có đủ sáng suốt và quyết tâm để vượt qua chính mình, tức là từ bỏ những lợi ích cá nhân cục bộ để vì nghĩa cử dân tộc lớn lao? Con ếch chỉ muốn kêu lên rằng, để làm được sứ mệnh thiêng liêng đối với vận mệnh dân tộc, trước hết  những người lãnh đạo hãy lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Và điều khẩn cấp là hãy cảnh giác đề phòng những con sóng thần đang rình rập.  Trước mắt, nếu chưa thể tự biến cải thì ít nhất họ hãy biết trở lại với chính mình của mấy mươi năm trước. Chỉ cần làm được thế thì đất nước và dân tộc này cũng may mắn lắm rồi ./. 




Thứ Ba, 19 tháng 4, 2011

Lời cảnh báo muộn mằn

Qúa trình hội nhâp quốc tế của nước ta đã trãi qua 20 năm rồi ...nhưng giới doanh nghiệp (tiêu biểu là các "anh cả đỏ" như VietnamAirlines, Vinashin ... vẫn thay nhau  bị "quả đắng" trong giao dịch quốc tế.
Theo VN express hôm nay   (Thứ sáu, 15/4/2011, 09:53 GMT+7) giờ đến lượt Vinalines ... 
Những lời cảnh báo muộn mằn phát ra từ nạn nhân nghe thật thảm thương!

Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) xác nhận bị giữ tàu do tranh chấp thương mại, phía Trung Quốc chỉ chịu thả tàu với khoản bồi thường 800.000 USD. Vinalines đã phát ra “cảnh báo” với các đơn vị trực thuộc cần lưu ý khi hoạt động ở vùng lãnh hải Trung Quốc.

Tàu Vinalines bị đối tác Trung Quốc giữ
Tàu Vinalines Global là tàu có trọng tải lớn nhất ở Việt Nam hiện nay. Ảnh: Vessel Tracker.
Tổng giám đốc Vinalines Nguyễn Cảnh Việt xác nhận tàu Vinalines Global này hiện bị giữ tại Trung Quốc do tranh chấp thương mại.
Vinalines Global là tàu hàng được Tổng công ty Hàng hải cho đối tác Ấn Độ thuê trọn gói theo hợp đồng định hạn. Theo Vinalines, đến cuối tháng 3, đối tác thuê tàu chưa trả tiền cước, do đó chi nhánh Vinalines TP HCM (đơn vị trực tiếp cho thuê tàu) đã ra thông báo giữ hàng lại trên tàu.
Tuy nhiên, toàn bộ hàng hóa trên tàu lại thuộc sở hữu của bên thứ 3, là chủ hàng Trung Quốc. Đối tác này đã trả tiền cước cho bên thuê lại tàu trước khi tàu cập cảng. Do đó, tòa án Trung Quốc cho rằng việc Vinalines giữ hàng là sai, phải bồi thường cho chủ hàng.
Mức phí được toàn án xác định là 800.000 USD và phía Trung Quốc sẽ giữ tàu trong thời gian chờ đợi Vinalines bồi thường. Trước đó, chủ hàng từng yêu cầu Vinalines bồi thường 1,8 triệu USD.
Thời hạn chót để thực hiện là ngày 15/4. Nếu Vinalines không bồi thường và chuyển tiền trong vòng 8 ngày thì toà án sẽ phát mại tàu.
Vinalines chưa cho biết tàu bị giữ từ hôm nào, chỉ thông báo tòa án Trung Quốc kết luận về vụ việc vào thứ 6 tuần trước, 8/4.
Vinalines Global là tàu hàng khô, có trọng tải lớn nhất Việt Nam (73.350 DWT) do chi nhánh Vinalines TP HCM quản lý và mới đưa vào khai thác từ năm 2008.
Liên quan đến tranh chấp thương mại này, Vinalines đã phát ra một “cảnh báo” với các đơn vị phụ thuộc của tổng công ty là cần lưu ý khi hoạt động ở vùng lãnh hải Trung Quốc, để tránh phải trả “học phí” quá đắt.
Ông Lê Đình Thanh, giám đốc chi nhánh Vinalines TP HCM cho biết Vinalines đang thương thuyết với chủ hàng Trung Quốc để giảm mức phí bồi thường.
Thu Hằng
 

Blog để làm gì?

Không quá ồn ào…, nhưng mới đây cộng đồng mạng đã rất xôn xao trước sự kiện đóng cửa blog “Người thích làm toán”. Kể cũng lạ, như tôi đây đã mấy lần đóng/mở blog mà chẳng thấy ai nói gì (?) Hóa ra, thế giới ảo nhậy cảm và phức tạp hơn nhiều lần so với  thế giới thực!.
                                                   Ảnh minh họa: Mùa hoa cải

Còn nhớ trước thời  bùng nổ “công nghệ thông tin” các bác nhà văn, nhà báo kỳ cạch cả ngày mới được đôi trang . Viết là một chuyện. Còn phải tìm nhà xuất bản . Rồi chờ có khi hàng tuần, hàng tháng, hàng năm sau  mới được thấy “đứa con tinh thần” của mình đến với bạn đọc. Thời đó tác giả nào viết gì thì thiên hạ đều biết. Họ thuộc loại quý hiếm. Có lẽ vì thế mà  cũng rất dễ nỗi tiếng, và  cũng dễ “chết”!
Nhưng, giờ đây mọi thứ đều đảo lộn với cái gọi là “blog”. Cánh nhà văn, nhà báo chẳng may chưa bắt kịp,  có thể đứng trước nguy cơ bi đẩy ra ngoài gìòng chảy của văn chương và thời cuộc. Ngược lại có những kẻ “vô học” thì bổng chốc trở nên “nổi tiếng” (ít ra là trên cộng đồng mạng ảo)... miễn là họ biết “chơi internet”! Thôi thì “trăm hoa đua nở, trăm người đua thể hiện”…Và blog “mọc” lên còn hơn cả nấm!
Bên cạnh những blog chuyên về chính trị, thời cuộc hay văn thơ, nghệ thuật, hội họa v.v…còn  có những blog chỉ để  để up ảnh nude các loại; lại có những blog chỉ để hàng ngày “buôn dưa lê” v.v… Bên cạnh những blog nghiêm túc với trữ lượng nội dung "đồ sộ", có không ít những blog chỉ để làm sàn trình diễn của những kẻ phàm tục, chí phèo hễ hở mồm là chửi thề, chửi tục...Có lẽ đó là nơi để chửi mà không sợ bị đấm vỡ mõm! . Cũng không ít những blog mở ra chỉ một lần rồi bỏ đấy để trở thành những ngôi nhà hoang vô chủ.  Đa số blog đề nick thật cho mọi người biết, nhưng có không ít blog mạo danh, nặc danh, thậm chí giả danh khiến nhiều người bị oan….
Có thể nói, ngoài những mục đích nghiêm túc về văn chương, hội hoa hay  thời sự, chính trị..., nhìn chung  ít nhiều blogger nào cũng  có mục đích "xả stress". Tuy nhiên trên thực tế hậu quả  "mua stress" cũng rất nặng nề đầy bi hài .
Tóm lại, mục đích nào cũng có phần đạt được nhưng luôn đi kèm với  những "tác dung phụ" (side effects).Vì sao vậy? Trước hết vì bản thân mỗi blogger thường không tự chế ngự mình trong quá trình giao tiếp trên mạng ảo, nhiều khi vượt ra ngoài mục đích ban đầu của chính mình. Thứ đến là do sự tác động của các nội dung thông tin rất đa dạng, đa chiều, đa mục đích....từ các blogger khác. Đó cũng là lẽ thường tình, vì có thể nói, cho đến nay blog là một loại hình văn hoá mới và có sức lan toả nhanh nhất trong lịch sử nhân loại. Nó cho phép phản ánh một cách nhanh nhậy nhất, sâu rộng nhất và có lẽ cũng chân thật nhất  muôn mặt của xã hội đời thường, trong đó "cái tôi" được thoả sức vẫy vùng với cả  mặt hay, mặt tích cực lẫn mặt không hay... 
Nhưng do blog có những đặc tính riêng, đặc biệt là người viết không nhất thiết biết mặt nhau và có thể không bao giờ gặp mặt nhau, khiến người ta có thể nói thẳng, nói thật hoặc nói đối, nói khoác,  thậm chí nói tục hoặc chửi cho đã mồm...Có những blogger hễ online (mở mồm) là chửi… chửi như hát hay vậy(!), có thể vì do không biết viết hoặc nếu có viết thì e không lột tả đầy đủ và chính xác bằng chửi (?)
Xét về mặt chính trị-xã hội, có thể nói công nghệ  blog đã mở ra một thời đại mới cho việc thực thi quyền dân chủ, chính xác là quyền tự do ngôn luận. Thông qua phương tiện blog, mọi người ai cũng có thể nói lên quan điểm cá nhân trước mọi vấn đề, mọi lúc mọi nơi  ; tuy không hoàn toàn nhưng người ta cảm nhận đầy đủ hơn cái quyền được nói ra những gì mình muốn nói; và ít nhiều thấy mình được bình đẳng hơn chăng(?). Đó là mặt tốt chủ yếu của blog.
Nhưng cái gì cũng có ít nhất là hai mặt của nó. Phải chăng, với blog người viết dẽ tự cho phép mình trở nên “vô trách nhiệm” hơn trước cộng đồng nói chung? Ngoài ra tính chất “ảo” của blog vừa là chất men say để sáng tạo nhưng cũng đồng thời là mầm mống của tính cách ngông cuồng hoặc lối sống vị kỷ, thậm chí là mảnh đất mầu mỡ cho chủ nghĩa vô chính phủ (anarchism).
Có lẽ những ai đã từng “chơi blog” trong một thời gian đủ dài đều có thể chia sẻ ít nhiều với những suy nghĩ trên đây. Bản thân tôi đã đôi lần cảm thấy “lưỡng lự” không biết có nên tiếp tục duy trì blog  hay không. Nhưng rồi tôi  tự “điều tiết” bản thân rằng, tốt nhất là hãy sử dụng blog của mình như một kho lưu trữ dữ liệu (bài viết, hình ảnh, âm nhạc, sáng tác...của bản thân và của người khác) và coi nó như một "kênh" trao đổi thông tin chủ yếu với bạn bè, một phần nào đó với cộng đồng nói chung. Để giảm thiểu những "tác dụng phụ", tốt nhất  là không (hoặc hạn chế) ghé thăm những trang blog mà mình đã từng biết nhưng rốt cuộc vẫn cảm thấy khó đồng cảm. Đồng thời cũng không nên cố ý áp đặt tư tưởng, sở thích của cá nhân mình đối với người khác.
Nhân đây cũng xin lạm bàn một chút về truờng hợp đóng cửa blog “Người thích làm toán”-sự kiện đang làm xôn xao dư luận  kèm theo với những lời khen, chê rất kịch tính. Riêng tôi cho rằng nguyên nhân chính có lẽ do Gs Ngô Bảo Châu đã sử dụng bản năng lô-gíc toán học vốn rất nhậy bén của ông trong việc đi tới quyết định đóng blog nói trên. Đó là phép tính của những điều lợi và hại đối với cuộc sống và sự nghiệp lâu dài của ông trong một môi trường không gian và thời gian cụ thể vừa qua. Đó cũng là một cách bày tỏ thái độ dứt khoát trước tình trạng lạm dụng blog của một bộ phận cộng đồng mang.    

Chắc chắn còn quá sớm để tổng kết mọi vấn đề liên quan đến blog. Nhưng cũng đã hơi muộn nếu không bàn về lĩnh vực thông tin đặc biệt này. Do đó tôi chỉ muốn nêu lên một vài suy nghĩ tản mạn tức thời để chia sẻ cùng mọi người thôi./.


Thứ Ba, 12 tháng 4, 2011

Viết nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương



Những ngày này cả nước rộn ràng không khí Giỗ Tổ  Hùng Vương. Bên cạnh hàng loạt các lễ hội còn có nhiều hoạt động chính trị-xã hội, đặc biệt cuối tháng 3 vừa rồi đã hoàn tất bộ hồ sơ gửi UNESCO đề nghị công nhận tín ngưỡng thờ Hùng Vương là di sản thế giới.  Tuy nhiên, những gì tôi sắp nói dưới đây không phải là bàn về ý nghĩa hoặc cách thức tiến hành sự kiện này mà là một vài suy nghĩ về sự thật lịch sử liên quan đến Đền Hùng nói riêng  và cội nguồn dân tộc Việt Nam nói chung.

Có thể nói đã từ lâu, nhất là trong mấy chục năm lại đây  Đền Hùng đã đi sâu vào tiềm thức nhân dân ta như một biểu tượng thiêng liêng của nguồn cội tổ tiên.  Nó phản ánh nhu cầu tâm linh truyền thống thờ cúng tổ tiên  của Việt tộc, và không có gì phải bàn nếu không có những “góc khuất lịch sử”. Có thật không tại nơi đây Lạc Long Quân-Âu Cơ đã sinh ra  các Vua Hùng? Hay chỉ là nơi “thờ vọng” để tưởng nhớ tổ tiên  của 5.000 năm trước từ Hồ Động Đình lui về ?  

Do tò mò, tôi đã thử thăm dò ý kiến của một số người thuộc các thành phần và lứa tuổi khác nhau, hầu hết đều mặc nhận rằng  Đền Hùng là đất tổ của dân tộc ta. Tuy nhiên sau một hồi trao đổi thảo luận ai cũng cảm thấy “ngờ ngợ” về điều này. Nhưng cái gì đã qua thì cho qua... và mọi người không mấy băn khoăn, thắc mắc nữa.

Trước lòng tin của số đông, thú thật tôi đã nhiều lần e ngại không dám nêu lên cảm nghĩ  khác biệt . Nhưng rồi cũng phải nói ra, nhất là khi nhận thấy đang có một xu hướng lãng quên sự thật lịch sử vì nhiều lý do khác nhau. Không ít người, kể cả giới sử học và trí thức nói chung hình như dễ dãi tự cho phép mình từ bỏ quan điểm 5.000 năm lịch sử để  thỏa mãn với khoảng 2.000 năm thôi! Không ít người, chủ yếu thuộc thế hệ trẻ thậm chí còn đùa cợt về truyền thuyết Âu Cơ-Lạc Long Quân và các Vua Hùng bằng những câu đồng giao vô thức như "Chung quy chỉ tại Vua Hùng/ Sinh ra một lũ vừa khùng vừa điên" ...Thật đáng buồn, đúng không?  

Sự vô lý không chỉ thấy ở trường hợp Đền Hùng mà còn thấy  ở những di tích khác.  Đền Gióng thờ một vị anh hùng chống giặc Ân”, tức là Nhà Thương (1766-1122 TCN) một triều đại tiền sử của Trung Quốc lúc đó chỉ mới đủ mạnh để vượt qua bờ Nam sông Dương Tử thì làm sao  đủ sức để xuống tận vùng Bắc Ninh ngày nay(?)   

Sách giáo khoa chính thức chưng lên tấm bản đồ nước Văn Lang với cương vực nằm trọn trong lưu vực sông Hồng. Vậy nếu nói rằng nước Việt cổ chỉ ở lưu vực sông Hồng thì cớ sao Hai Bà Trưng đánh giặc bên Lưỡng Quảng? Rồi sau này Vua Quang Trung cũng nguyện đòi lại Lưỡng Quảng?  Tương tự cũng có những điều  phi lô-gíc liên quan đến vai trò của Triệu Đà, câu chuyện Thành Cổ Loa và chiếc Nỏ Thần. Nếu nói Nam Việt không thuộc Việt Nam thì cớ sao Hưng Đạo Vương đã từng coi Triệu Đà là là "bậc tiền bối" của dân tộc? (Nên nhớ rằng các vua chúa TQ xưa đã không thừa nhận vai trò  của Triệu Đà). Thật đáng xấu hổ VN cũng chối bỏ một thời kỳ lịch sử của tổ tiên mình. Xin hỏi, Triệu Đà có khác gì trường hợp các vị vua chúa có “nguồn gốc Hoa” trong  lịch sử dựng nước của Việt Nam? Hay chỉ vì bị Phương Bắc cấm không được nhận ?  

Thực tế cho thấy Đền Hùng và các di tích lịch sử trên đất nước Việt Nam ngày nay  đều chỉ có khá muộn sau thời kỳ Bắc thuộc. Nên nhớ dân tộc bao giờ cũng  ra đời trước quốc gia, và quốc gia của người Việt cổ xưa (thời các Vua Hùng) và nước Việt Nam sau này đã bị gián đoạn bởi 1.000 năm Bắc thuộc - một thời gian đủ dài để nhiều quốc gia dân tộc có thể “biến mất”!. Vậy nên những sự thật lịch sử bị mai một, hoặc bị xuyên tạc, tráo đổi trong quá trình thống trị của ngoại bang là điều hoàn toàn có thể; chỉ có truyền thuyết được truyền miệng mới có thể trường tồn. Và trên thế giới lịch sử của nhiều dân tộc khác cũng đều căn cứ vào truyền thuyết mà không nhất thiết phải chứng minh bằng chứng cứ có thật. Cái may của Việt Nam là dân tộc vẫn còn thì việc tìm lại cội nguồn là hoàn toàn có thể. Về để tìm đúng nguồn cội, ngoài những dấu vết dưới chân mình còn phải tìm từ những dấu vết đã đi qua. Vấn đề không phải là thiếu cơ sở sử liệu  khảo cổ mà là thiếu ý chí  để tìm lại sự thật lịch sử một cách khách quan.  
  
Thiết nghĩ, “tìm lại chính mình” không chỉ là nguyện vọng tâm linh mà còn là nghĩa vụ của mọi công dân, là nguồn động lực để dân tộc tiếp tục trường tồn và phát triển sánh vai với các dân tộc khác. Để làm được điều này trước hết không thể không giải mã những “góc khuất lịch sử” nhằm  khẳng định 2 khái niệm cơ bản dưới đây:        
Một là, khẳng định lại 5000 năm lịch sử từ thuở Hồng Bàng với cội nguồn từ núi Thái Sơn, Hồ Động Đình nay thuộc Hồ Nam , TQ, chứ không phải chỉ có hơn 2000 năm lịch sử trong phạm vi châu thổ sông Hồng…Nếu lập luận này là đúng thì thử hỏi  họ đã “quẳng” ½ thời gian tiền sử của họ Hùng đi đâu mất rồi? Hay chẳng lẽ ông cha ta đã bịa ra truyền thuyết Âu Cơ lạc Long quân.
Hai là, cũng không nên chối bỏ thực thể dân tộc Viêt Nam ngày nay tiêu biểu là người Kinh là kết quả của  quá trình hợp chủng giữa Hán tộc và Việt tộc cụ thể là LạcViệt,  Âu Việt  trong suốt quá trình bị dồn đẩy về  phương Nam. Sau đó  trong quá trình mở mang bờ cõi xuống phía Nam của chính mình, người Việt  cũng "hợp chủng"  thêm cả với các sắc tộc bản địa như người Chàm, Khmer,... Nói cách khác nguồn gốc người Việt cũng tương tự người Hoa, chỉ khác ở chỗ người Hoa ở lại và bị người Hán đồng hóa thành nước Trung Hoa hiện đại, trong khi người Viêt lui dần về phía  Nam để bảo toàn bản sắc (chủ yếu là văn hóa) để hình thành nước Việt Nam ngày nay.

Thực ra cho đến nay đã có khá đầy đủ cơ sở lý luận và sử liệu cùng những phát hiện mới về khảo cổ, sinh học và gien di truyền để đi tới khẳng định hai nội dung nói trên. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của các truyền thuyết. Làm được như vậy  là phản ánh thực tế lịch sử khách quan một cách có lợi cho dân tộc ta  mà không xâm hại lợi ích của dân tộc khác. Cũng cần hiểu rằng nhắc lại sự thật lịch sử về cội nguồn dân tộc và cương vực lãnh thổ hoàn toàn không có nghĩa là “để đòi lại” hay “phải trả lại”, mà chỉ là để hiểu biết đúng đắn về quá khứ, trên cơ sở đó phát huy đầy đủ các mối quan hệ tương đồng, tương tác giữa các quốc gia láng giềng nhằm cùng tồn tại và phát triển một cách hài hòa và bền vững.  Vậy tại sao không làm?  
                                                                           
Hà Nội, mồng mười tháng ba Tân mão




Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

Hay quá! nhưng…. vẫn buồn!

Đang lúc buồn buồn …thì vớ được một entry trên nguyenuandien blogspot, trong đó trích đăng bài viết của tác giả Tống Văn Công. Thoạt thấy bài hơi dài nên định bụng đọc lướt cho nhanh…Nhưng càng đọc thấy càng phải đọc chậm lại vì bài viết như đang nói thay tâm trạng của mình. Đến cuối bài lại thấy lời bình của chủ blog nguyenuandien sao mà “trùng phùng” quá!

Có điều là, đọc xong vẫn thấy buồn...: Hình như đa phần những bài có tính chính luận hoặc phê phán (của ta) đều phải liên hệ, so sánh với người ngoài hay nước ngoài..., như thể nếu không thì sẽ không đủ sức thuyết phục (cả đối với bạn đọc lẫn những “người kiểm duyệt”). Vì sao vậy?      

Xin phép hai tác giả được trích đăng lại entry nói trên để có thêm nhiều người cùng đọc.  

 VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN

                                                                                  Tống Văn Công

Đọc Góc ảnh chiếu từ nước Nhật của nhạc sĩ Tuấn Khanh, dù đau lòng tôi cũng đồng tình với ông: " Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật, người ta bừng sáng hy vọng – và đôi khi sống giữa những điều được gọi tên là bình yên của đất nước mình, một người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh chiếu sắc cạnh của sự hoang tàn". Đã có nhiều bài viết cho rằng nếu tai họa như nước Nhật xảy ra ở nước ta thì có thể hình dung nhiều điều xấu xa sẽ xảy ra bởi sự băng hoại đạo đức của người Việt. Mới đây, có ý kiến chỉ đạo báo chí: "Khi đề cao tinh thần vượt khó của nhân dân Nhật Bản không nên cường điệu, vô hình chung (trung) hạ thấp tinh thần của người Việt Nam". Cường điệu là điều không nên, tuy nhiên có cần phải lo lắng "vô hình trung hạ thấp tinh thần của người Việt Nam" ? Lổ Tấn chọn đơn thuốc AQ đắng nghét đã có hiệu quả chữa trị tinh thần bạc nhược của người Tàu. Sau này, nhà văn hóa Bá Dương tiếp tục mổ xẻ "Người Trung Quốc xấu xí" cũng được đồng bào ông cho là cần thiết.
Nhân chuyện này, tôi muốn chúng ta cùng nhớ rằng dân tộc ta vốn không phải xấu xa như hôm nay mà đã từng có những thời kỳ rất tốt đẹp . Hằng ngàn năm trước, ông cha ta có tư tưởng nhân văn vượt thời đại: "Thương người như thể thương thân". So với "Điều gì mình không muốn thì đừng gây ra cho người" của Khổng Tử quả là cao hơn. Con cái biết sánh: "Công cha như núi Thái sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Cha mẹ mong muốn "Con hơn cha là nhà có phúc" chứ không đòi hỏi "Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu". "Thuận vợ đồng chồng tát bể Đông cũng cạn" chứ không phải "phu xướng phụ tùy "… Đối với hàng xóm thì "Tối lửa tắt đèn có nhau". Đối với đồng bào thì "Người trong một nước phải thương nhau cùng" v.v.
Những ai đã từng trải qua thời kháng chiến chống thực dân Pháp đều biết: Ở các vùng giải phóng, đêm nhà nhà không cài cửa. Nhân dân giành nhau đón mời bộ đội về nhà mình để chăm sóc nuôi dưỡng. Đơn vị tôi có anh Nguyễn Hoàng Minh là người Bắc, được các bà các mẹ bảo: "Tao thương nó hơn tụi bay. Nó xa cha xa mẹ vô đây". Trong lần nói chuyện với cán bộ miền Bắc sắp đi B (vào Nam),Tổng bí thư Lê Duẩn kể, thời chống Pháp, ông ở nhà dân và họ đều biết ông là Bí thư Trung ương cục. Mỗi lần ông đi công tác về gặp bữa cơm, ông bà chủ nhà hỏi: "Thằng Ba, mầy ăn cơm ở đâu chưa? Chưa, thì vô bếp lấy chén đũa ra ăn luôn nghe!".
Khi tập kết ra Bắc, đơn vị tôi đóng quân ở nhiều vùng.Tôi nhận ra là đồng bào mình ở miền Bắc cũng sống đầy tình nghĩa như trong Nam, dù vật chất có thiếu thốn hơn. Thời Mỹ ném bom phá hoại, nhân dân các vùng khu IV dám đem ván phảng nhà mình lót hố bom cho xe bộ đội kịp chuyến vào Nam. Các vùng bị B52 dội bom ác liệt như Khâm Thiên, Gia Lâm…, hoàn toàn không có hiện tượng hôi của. Xăng dầu, quân dụng rải dọc theo ven đường không cần canh giữ, cũng không bị trộm cắp…
Câu thành ngữ "Ra ngõ gặp anh hùng" mô tả chính xác con người Việt Nam trong suốt 30 chiến tranh. Toàn dân tin những người lãnh đạo đang dồng cam cộng khồ với mình vì "Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do". Do vậy mà được thế giới nhìn vào,ca ngợi "Việt Nam là lương tâm của nhân loại"!
Tại sao người Nhật thảm bại trong chiến tranh, đã có thể vươn dậy làm nên sự "thần kỳ Nhật Bản". Còn ta thì ngược lại từ "ra ngõ gặp anh hùng" đến tình trạng "Đến chỗ nào cũng thấy ăn cắp"! Có lẽ xem xét hiện tượng trái ngược này sẽ giúp chúng ta thu được nhiều điều bổ ích ?
Có người cho rằng, vì người Nhật tiếp tục những bài học từ thời Thiên Hoàng. Nói như vậy thì xa xôi quá! Tôi nghĩ, chỗ khác nhau giữa ta và họ là cách rút ra bài học sau chiến tranh, từ đó mà tìm đúng con đường đi tới.
Người Nhật bại trận đã nhanh chóng nhận ra nguyên nhân thất bại của mình là đi ngược lại xu thế thời đại: Chủ nghĩa Sôvanh (Ph. Nicolas Chauvin), chủ nghĩa thực dân với mọi hình thức đã bị lịch sử phủ định .Người Nhật cũng nhanh chóng nhận ra, Mỹ là một quốc gia dân chủ, đề cao nhân quyền, họ tham gia lực lượng Đồng minh chỉ nhằm chống phe trục, chứ không có mưu toan chiếm Nhật làm thuộc địa. Từ nhận thức đó, dù vừa bị Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử đầu tiên, người Nhật không coi họ là kẻ thù mà tự nguyện giao kết là đồng minh chiến lược trong công cuộc phục hưng đất nước. Nhờ quan hệ này, người Nhật suốt thời gian dài không phải bỏ nhiều chi phí cho quốc phòng, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội, trở thành tấm gương tốt đẹp nhiều mặt:
1 – Từ bỏ độc tài quân phiệt, xóa hệ thống chính trị phát xít, tôn trọng dân chủ, nhân quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập. Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến, trong đó Thủ tướng nắm quyền cao nhất về quản lý quốc gia và chịu sự giám sát của Quốc hội hai viện, cùng Tòa án Hiến pháp nhằm ngăn chặn những quyết định vi hiến của Chính phủ. Thế giới coi Nhật là một nước có nền dân chủ đầy đủ, ưu việt vào bậc nhất.
2 – Chuyển đổi nền kinh tế phục vụ chiến tranh thành nền kinh tế dân sinh, nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu. Từ hoang tàn người Nhật xây dựng nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Gần đây Trung Quốc tuyên bố đã chiếm vị tri nền kinh tế lớn thứ 2, nhưng mức thu nhập bình quân của người Trung Quốc còn thấp quá xa so với Nhật. Trong khi đó Nhật không có tình trạng cách biệt giàu nghèo khủng khiếp như Trung Quốc!
3 – Xây dựng nền văn hóa tiên tiến và bảo tồn bản sắc tốt đẹp của truyền thống Nhật Bản; một nền giáo dục hàng đầu thế giới về đào tạo những con người phát triển toàn diện. Nền văn hóa và giáo dục đó sản sinh 2 nhà văn đoạt giải Nobel văn học là Yasunari Kawabata, Kenzaburo Oe và nhiều văn tài khác như Kôbô Abê , Haruki Murakami. Trà đạo, hát ka-ra-o-kê, thơ Hai-ku, ẩm thực Nhật được thế giới hâm mộ.
Đặc biệt những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn cho nhân dân Việt Nam mà chúng ta chưa thực hiện được đã có thể nhìn thấy ở Nhật Bản như : "Chính quyền từ xã tới trung ương phải do nhân dân lập ra"; "Nếu Chính phủ làm hại dân thì nhân dân có quyền đuổi Chính phủ", "Cán bộ, đảng viên là người lãnh đạo và là đày tớ của nhân dân"… Mấy năm qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vị Thủ tướng Nhật chỉ vì chưa thực hiện được một lời hứa náo đó đã phải từ chức, chứ chưa cần người dân đưa đơn kiện. Trong vụ động đất hiện nay, chúng ta thấy ông Thủ tướng Can vô cùng tất bật vẫn bị người dân Nhật phê phán đã chậm có mặt ở nơi bị tàn phá nặng nhất .
Tai họa vừa qua, phẩm chất con người Nhật Bản được nhân loại thán phục chính là kết quả của nền chính trị, kinh tế, văn hóa và giáo dục ưu việt của họ.
Hàng chục năm qua, Việt Nam chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ hào hiệp của Nhật Bản.Hiện nay hàng vạn sinh viên và người xuất khẩu lao động Việt Nam đang học tập và lao động ở Nhật. Nhiều nhà lãnh đạo nước ta trân trọng đề cao mối quan hệ đối tác chiến lược Nhật – Việt. Chẳng lẽ chúng ta không biết trân trọng tìm học con đường đưa tới dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh theo kiểu Nhật? Tựu trung gồm 3 điểm vừa kể ở trên.
Chúng ta ra khỏi chiến tranh với tư thế người anh hùng chiến thắng siêu cường số 1 thế giới! Nguồn sức mạnh để chiến thắng, được chúng ta nhận định là từ "3 dòng thác cách mang" thế giới. " Chủ nghĩa Mác – Lênin bách chiến bách thắng muôn năm !" được chúng ta trương cao khắp đất nước như là một tuyên ngôn, là tổng kết chiến tranh và là ngọn cờ sẽ dẫn đường đi tới. Từ nhận định đó đưa tới đổi tên Đảng, đổi quốc hiệu, thực hiện chuyên chính vô sản, vạch ra đường lối tiến nhanh tiến mạnh ,tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó, trên bình diện quốc tế, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng, đã có nhiều dấu hiệu rạn vỡ. Rạn vỡ dễ thấy nhất là sự chống đối nhau điên cuồng, kể cả bằng vũ lực của hai nước lớn nhất là Liên Xô và Trung Quốc, cho thấy điều gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản không hề tồn tại! Mãi đến khi đã bị Trung Quốc phản bội tấn công, chúng ta vẫn kiên trì nhận định Mỹ là kẻ thù lâu dài, nguy hiểm, còn Trung Quốc chỉ là kẻ thù trực tiếp, bởi đang có một nhóm cầm quyền mang tư tưởng bá quyền bành trướng. Do nhận định như vậy, ngay sau khi Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, Tổng bí thư Nguyễn văn Linh vội vàng sang cầu hòa với Trung Quốc trong thế yếu, ca ngợi "16 chữ vàng", trong thực tế đau buồn là đang bị chiếm đất, chiếm đảo, đưa tới nghịch cảnh mãi tận hôm nay! Để Trung Quốc có cớ xâm lược là không khôn khéo, tuy nhiên thỏa hiệp vô nguyên tắc và không biết tìm cách để chọn nhiều đồng minh chiến lược, đối trọng với họ giữ vững an ninh cũng là không biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khác hẳn chúng ta, người Mỹ nhanh chóng nhận ra thất bại của họ trong cuộc chiến là đã không hiểu được sức mạnh từ chủ nghĩa yêu nước của người Việt (Hồi ký của nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Macnamara). Họ muốn sớm lập quan hệ với chúng ta, nhưng trớ trêu thay chúng ta không vượt qua nổi mối thù! Chúng ta không hiểu đúng sức mạnh quyết định chiến thắng của mình chính là được khơi dậy từ lời kêu gọi chính xác của Hồ Chí Minh:"Không có gì quý hơn Độc lập Tự do"! Hiện tượng hàng triệu quân chế độ Sài Gòn dễ dàng tan rã, chắc chắn không phải vì họ hèn kém bởi họ cũng là con Lạc, cháu Hồng, chắc rằng họ rã ngũ vì không thấy mình đối địch với cộng sản, mà đối địch với Độc lập Tự do! Ông Lê Duẩn cho rằng phải "giương cao 2 ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội" , trong tình thế bấy giờ là đúng, bởi vì cần phải có vũ khí của Liên Xô,Trung quốc. Tuy nhiên, "ngọn cờ xã hội chủ nghĩa" mặt khác đã làm cho sự quyết đấu vì ý thức hệ giữa Tự do và Cộng sản của Pháp, Mỹ càng thêm quyết liệt. Nói như vậy, không hề có ý giảm nhẹ trách nhiệm của Pháp và Mỹ. Cho đến khi đã bị sa lầy trong cuộc tái chiếm thuộc địa, phải tìm giải pháp Bảo Đại, thế mà người Pháp vẫn làm cho "con ngựa cũ" của mình phải lồng lộn: "Hơn nữa, nếu chính phủ Pháp đoạn giao với "Bác Hồ" chính là bởi lý do sự đòi hỏi về độc lập và thống nhất của họ nhiều hơn lý do họ là cộng sản quốc tế" (Bảo Đại – Con Rồng Việt Nam, trang 334). Từ thời ấy, Mỹ đã gánh cho Pháp hơn 80% chiến phí. Chính thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã đẩy Cụ Hồ phải tìm chỗ dựa Trung quốc, Liên Xô .
Nếu tỉnh trí, nhìn đúng thế mạnh chiến thắng vừa qua của mình, chúng ta sẽ trở lại với Cụ Hồ khi trích Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp làm Tuyên ngôn độc lập Việt Nam, .mà vấn đề cốt lõi là Dân chủ và Nhân quyền. Nếu sớm nhận thức như vậy chúng ta ắt sẽ chủ đông thực hiện đường lối Đổi mới khi chưa bị tình thế thúc ép. Và như vậy sẽ là không có cải tạo xã hội chủ nghĩa công, nông, thương nghiệp; cũng không cần cải tạo cán binh Sài Gòn; sẽ không có nạn thuyền nhân. Toàn thế giới sẽ tiếp tục đứng bên Việt Nam như 30 năm qua. Trung Quốc không dễ lôi kéo Mỹ để gây cho chúng ta hai cuộc chiến thảm khốc. Với thế và lực mới ấy, chúng ta sẽ phát triển nhanh chóng, có thể chưa theo kịp Nhật Bản, nhưng chắc chắn không thể kém Hàn quốc, bởi họ còn bị trì kéó bởi một Bắc Triều Tiên. Tiếc thay!
Dù sao chúng ta cũng còn may mắn hơn Bắc Triều Tiên, Cu Ba, vì đã có những nhà lãnh đạo dám xé rào, Đổi mới, dù đã đến lúc bế tắc. Cuộc Đổi mới đã đem lại sức sống cho nền kinh tế Việt Nam mà thành tựu của nó đã được ca ngợi quá nhiều, thiết tưởng không cần phải nhắc lại. Riêng đối với Đảng Cộng sản thì cuộc Đổi mới đã đem lại thế mạnh nào và đào sâu thế yếu nào? Và nó đã tác động ra sao đối với phẩm chất con người Việt Nam? Đó là những vấn đề cực kỳ rộng lớn mà chúng tôi không có tham vọng giải đáp được, chỉ mong xới lên để các nhà lý luận của Đảng Cộng sản và các bậc thức giả trong ngoài nước cùng bàn.
Tôi nhớ, đầu những năm 90 ông Nguyễn Cao Kỳ trả lời câu hỏi: Vì sao vốn là người kiên quyết chống Cộng, ông lại kêu gọi hòa hợp dân tộc, về nước hợp tác với chính quyền cộng sản phát triển đất nước? Ông Kỳ đáp: Tôi nghĩ rằng ở Việt Nam không còn cộng sản. Bởi tôi hiểu công sản chủ trương chỉ còn một giai cấp và không chấp nhận kinh tế thị trường .Nay họ công nhận kinh tế nhiều thành phần giai cấp, phát triển thị trường tự do. Họ giống như những thày tu đã ngả mặn rồi mà vẫn cứ đòi gọi mình là thày tu. Ý kiến nôm na của ông Kỳ hoàn toàn phù hợp với lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin . Những nhà lý luận Mác xít của Việt Nam cứ khất lần khất lữa suốt 25 năm vẫn không thể tìm ra định nghĩa mới cho chủ nghĩa xã hội ngoài câu Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, 5 năm sau được bổ sung thêm từ Dân chủ đứng sau từ Công bằng, rồi phải mất 5 năm nữa từ Dân chủ mới được chuyển lên đứng trước Công bằng! Ôi, nguyện vọng dân chủ đã được Hồ Chí Minh khơi dậy, nhân dân ta đã tốn bao xương máu để giành lấy vậy mà sao thực hiện nó vất vả đến như vậy!
Những người mác xit đều biết lý thuyết về sự phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Trong lời tưạ Tuyên ngôn đảng cộng sản in bằng tiếng Đức ngày 28-6-1883, Ăng-ghen viết: "Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy ". Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam hiểu rõ lời dạy đó, nên đã nhiều lần nhắc lại rằng phải Đổi mới toàn diện từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội. Văn kiện Đại hội 11 cũng nhắc "Đổi mới trong lĩnh vực chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế". Tuynhiên cho tới nay hệ thống chính trị hầu như không có thay đổi gì đáng kể so với 25 năm trước. Cuộc bầu cử Quốc hội đang xúc tiến từ cung cách đến nội dung chỉ đạo cũng na ná như xưa. Về tỉ lệ đảng viên trong Quốc hội, ông Võ văn Kiệt cho rằng chỉ nên hơn 50%, khóa 12 là 92%, khóa này được nêu ra là từ 85 đến 90% . Ông Võ văn Kiệt cũng đề nghị "Về cơ bản đã làm đại biểu Quốc hội thì thôi không làm quan chức hành chính nữa". Nhưng khóa này quan chức hành chính ứng cử vẫn đông!
Do cơ cấu xã hội không phù hợp sản xuất kinh tế như Ăng-ghen nêu ra mà đã xảy ra những điều tréo ngoe giữa thực tế cuộc sống với lý thuyết từ các nghị quyết. Có thể nêu ra hàng chục dẫn chứng, nhưng chỉ xin nêu hai điều đang trở thành hiểm họa cho Dân tộc và cho cả Đảng cộng sản :
1 – Trong khi chúng ta dành những lời thân thiết nhất cho các quốc gia Đảng cộng sản lãnh đạo, cho cánh tả, coi sức mạnh thời đại ta cần phải kết hợp là ở đó thì thực tế là chúng ta phải dựa vào sự giúp đỡ lớn nhất ở các nước tư bản tiên tiến như Nhật, Hàn Quốc… những đồng minh chiến lược của Mỹ. Trớ trêu hơn là Trung Quốc, người đồng chí có chung16 chữ vàng, chung mục tiêu 4 tốt, chung quan điểm trong nhiều sự kiện lớn của thế giới (như Bắc Phi, Libi…) và chính sách đối nội (như dân chủ, nhân quyền; bên kia thì có Lưu Hiểu Ba, bên này là Cù Huy Hà Vũ). Dù chúng ta đã cố sức chiều theo họ rất nhiều vấn đề khó chiều như: Họ đóng cửa các công trình khai thác bôxít ở nước họ, để sang khai thác bôxit trên "mái nhà" của nước ta và cả Đông Dương. Mới hôm qua, họ xả nước bẩn làm ô nhiễm Sông Hồng, nhưng chính quyền Vân Nam thẳng thừng từ chối đề nghị khẩn thiết của Lào Cai cùng phối hợp nhau để kiểm tra!
Càng trớ trêu thay, hầu như tháng nào người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng phải lắp đi lắp lại một lời tuyên bố giống nhau: "Trung Quốc cần chấm dứt ngay sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam"!
2 – Hệ thống chính tri của chúng ta luôn luôn được đề cao về sứ mệnh cao cả là đang lãnh đạo toàn dân tộc theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người, nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó suốt 20 năm nay, những người điều hành hệ thống chính trị này luôn luôn bị các cơ quan chuyên môn của quốc tế xếp vào "tốp 10" đại tham nhũng. Tham nhũng Việt Nam đứng trên hơn 150 quốc gia tư bản, bộ máy điều hành của họ chắc chắn không có đảng viên cộng sản nào! Năm 2006, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nhận định "Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ"..Đầu năm 2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cho rằng chống tham nhũng là "mong mỏi rất chính đáng và tha thiết của những người dân. Nhưng cho đến hôm nay tôi tự thấy nhiệm vụ đó tôi làm chưa xong " (Báo xuân Sài Gòn tiếp thị).
Ngày nay người dân nhìn đâu cũng thấy những người đảng viên cán bộ lúc nào cũng nói về giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, về học tập và làm theo đạo đức Bác Hồ, về quyết tâm đi lên chủ nghĩa xã hội, trong khi đó họ chẳng những có mức sống cao hơn hẳn người dân mà có quá nhiều người nhà cao cửa rộng, con cái làm chủ những công ty tư nhân có vốn nhiều triệu đô la. Hơn 3.000 cuộc đình công của công nhân không qua sự chỉ đạo của Công đoàn, hiện tương nông dân khiếu kiện vượt cấp vùng nào cũng có, đã nói lên tâm trạng xã hội không yên ổn!
Từ ngàn xưa, người dân vẫn nhìn vào người cầm quyền để noi theo gương trong cuộc sống. Cổ đại có gương Nghiêu, Thuấn thuần dưỡng cả nước trở thành lương dân. Quá nhiều người dân hư hỏng người lãnh đạo phải soi lại mình.
Chúng ta kêu gọi toàn Đảng thống nhất nói theo Nghị quyết, làm theo Nghị quyết và các cơ quan truyền thông phải tuyên truyền đúng định hướng, để tạo ra sự đồng thuận trong toàn dân. Hãy nhớ lại, Cụ Hồ đâu có nhiều lời, chỉ cần một câu thôi, đã khiến cả nước đứng dậy đi theo dù con đường vô cùng gian khổ.
Hai năm qua có quá nhiều điều dù Đảng có Nghị quyết, báo chí tuyên truyền theo định hướng, nhưng không dễ tạo ra được đồng thuận, Ví dụ:
Chủ trương hợp tác với Trung Quốc khai thác bôxít, đã có hàng ngàn chữ ký kiến nghị dừng lại, có những chữ ký của các vị đáng kính như Đại tướng Võ Nguyên Giáp; nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình; người anh hùng có nụ cười công phá chế độ Sài Gòn Võ thị Thắng; những nhà khoa học hàng đầu đất nước như Nguyễn văn Hiệu; Chu Hảo; Đặng Hùng Võ; Nguyễn Quang A…
Mới hôm qua đây là vụ án Cù Huy Hà Vũ. Dù anh ấy có văn phong không quen tai như lâu nay (như ông bà mình nói, trực [trung] ngôn nghịch nhĩ) , nhưng tất cả nội dung đều nằm trong quyền công dân mà ngày xưa, Bác Hồ từng khuyến khích và Hiến pháp hiện hành không cấm. Do vậy, mặc dù muốn làm cho vụ án trở thành bé nhỏ ,không quan trọng (các bản tin VTV tối 4 tháng 4 năm 2011 đều không xếp vào các tin quan trọng; phiên tòa gói gọn không hết một ngày). Nhưng tầm quan trọng của nó vẫn cứ lộ rõ, bởi: nhiều tướng lĩnh cách mạng, văn nghệ sĩ, bình luận viên báo chí trong và ngoài nước cho rằng Hà Vũ nói những điều nhiều người nghĩ như thế mà không nói; Giáo dân thắp nến cầu nguyện trước ngày tòa xử; và các ngả đường quanh tòa án có quá nhiều cảnh sát bảo vệ.
Nước Nhật không thể có những vụ án tương tự. Chúng ta có nên học tập Nhật Bản? Nên lắm chứ ! Tuy nhiên trước hết nên học tập Hồ Chí Minh, không chỉ học và làm theo đạo đức mà trước hết hãy học và thực hiện tư tưởng Tự do, Dân chủ của Người!
Ngày 5 tháng 4 năm 2011

Lời bình của Nguyễn Xuân Diện:
Bài viết này hay quá! Lời văn giản dị, cách nhìn điềm đạm, thấu đáo, chân thành. Một nhà cách mạng lão thành viết cho mọi người với lời lẽ ôn tồn, nhủ bảo, không lên gân mà ý và lời đi thẳng vào tim óc người đọc, đi vào từng mao mạch những ai mang dòng máu Lạc - Hồng. Tống tiên sinh tuổi đã cao mà không "lão giả an chi", lòng vẫn sắt son, chí vẫn trinh bền, tâm vẫn cầu thị, trí vẫn mẫn tiệp, lời vẫn thiết tha.
Phàm là người Việt Nam, bất kể trẻ già, sang hèn, trong ngoài, thân phận thế nào, cứ là người đọc được Tiếng Việt thì nên đọc bài này. Ai đã đọc bài này, nếu gặp những người không biết chữ thì nên gia tâm đọc cho họ nghe bài này, để cùng nhau chia sẻ với Tống tiên sinh.
Các nhà lãnh đạo càng nên đọc bài này, để trau giồi thêm cho mình, - nghe nói là người Cộng sản phải trau mình đến tận lúc tàn hơi (như Bác Hồ mong muốn) - để từ đó, trên cương vị công tác của mình gắng từ việc nhỏ đến việc to, gắng từ việc dễ đến việc khó, vượt qua bản thân mình, góp phần đưa nước mình tiến lên cõi "xuân đài thọ vực". Kính vậy thay! Mong vậy thay!

*Ghi chú: Chư vị coppy hình đôi chim ra màn hình máy tính. Đôi chim này sẽ bay lượn bên nhau và mớm mồi cho nhau, hình một trái tim hồng xuất hiện - biểu tượng của tình yêu nồng nàn, trao gửi.


Tìm kiếm Blog này