Trên thế giới lịch sử dân tộc bao giờ cũng dài hơn nhiều so với lịch sử quốc gia, thậm chí có những dân tộc biến mất hoặc không còn quốc gia. Mặc khác, hầu hết lịch sử của các dân tộc đều có thời kỳ tiền sử chủ yếu được lưu truyền bằng tuyền thuyết có khi hàng chục ngàn năm. Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Điều may mắn là dân tộc Việt vẫn tồn tại với thực thể quốc gia đến ngày nay sau "ngàn năm Bắc thuộc" là một thời gian đủ dài để bị xóa dấu vết. Do đó, sẽ là sai lầm nếu bác bỏ truyền thuyết hoặc tin vào truyền thuyết một cách mù quáng như nó đã và đang diễn ra. 
Đó là lý do để chủ blog Bách Việt xin mạn phép các tác giả đăng lại nội dung dưới đây với một tiêu đề khác: "Khi lịch sử bị hiểu sai" với mong muốn rằng các nhà nghiên cứu hãy tập trung giải mã những khuất tất bằng chính những công trình nghiên cứu của bản thân, chứ không chỉ dựa vào tư liệu và sử sách của nước khác để tô vẽ hoặc bác bỏ truyền thuyết của dân tộc mình-Bách Việt.  
Kinh Dương Vương, Ông nội của Vua Hùng là sản phẩm văn hóa Tàu  (Ts Trần Trọng Dương)                                Theo blog Nguyễn Xuân Diện     Kinh Dương Vương- ông là ai? 
Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân: Vừa qua, được  biết tỉnh Bắc Ninh đã triển khai một dự án khôi phục và tăng quy mô xây  dựng khu di tích thờ "Thủy tổ Kinh Dương Vương - ông nội của Vua Hùng",  với vốn đầu tư 500 tỷ đồng. Thật là hãi hùng về con số chi phí khổng lồ  này, trong khi tình hình kinh  tế đang hồi bấn loạn, ngân khố cạn kiệt,  nhân tâm đang xáo động. 
"Ông nội của Vua Hùng" - chính điều này đã thôi thúc một số nhà  nghiên cứu trong và ngoài nước cất công, một lần nữa truy tìm nguồn gốc  của Kinh Dương Vương. Và thật bàng hoàng: Kinh Dương Vương phải chăng  chỉ là một sự cóp nhặt của Ngô Sĩ Liên từ nhân vật Kinh Xuyên trong tiểu  thuyết truyền kỳ Trung Hoa? Phải chăng, chúng ta đã và đang, và còn mãi  về sau thờ một ông vua giả có nguồn gốc của Tàu?
Như trong bài viết trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng Đại Việt  sử ký toàn thư- bộ sử quan trọng nhất của Việt Nam đề cập đến những sự  kiện từ khởi thủy cho đến thế kỷ XVII- là một tư liệu được biên soạn  trên tư duy đa nguyên "văn- sử- triết" của thời Trung Đại. Trong đó, bộ  sử này đã sưu tập nhiều huyền thoại dân gian của đời sau để bù đắp cho  những khuyết thiếu của sử liệu. Trong bài này, chúng tôi sẽ tiếp tục đưa  ra những cứ liệu để làm rõ hơn vấn đề tai hại trên. Đối tượng được đề  cập đến ở đây chính là Kinh Dương Vương- một nhân vật được coi là thủy  tổ của Việt Nam- phải chăng chỉ là một ảo ảnh diễn hóa từ nhân vật Kinh  Xuyên trong tiểu thuyết truyền kỳ của Trung Quốc?
 
Cổng đền thờ Kinh Dương Vương có bốn chữ Hán đắp nổi THỦY TỔ ĐÀI MÔN,
ảnh: Thọ Bình, Bá Kiên, theo tienphong.vn 
Kinh Dương Vương và tín ngưỡng thờ Kinh Dương Vương 
Theo như cách trình bày ở Kỷ Hồng Bàng thị trong Toàn thư, Kinh Dương  Vương tên là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông, vị vua khai sáng ra nước  Xích Quỷ (quỷ đỏ). Vì thế Kinh Dương Vương này được Ngô Sĩ Liên coi như  là là vị thủy tổ đầu tiên của người Việt và nước Việt. Chẳng những thế,  Kinh Dương Vương còn lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long để  sinh ra Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân. Lạc Long Quân sau lấy Âu Cơ- con  gái của Đế Lai, sinh ra trăm con trai, 50 con lên rừng, 50 con xuống bể.  Vị con trưởng được nối ngôi cha, phong là Hùng Vương. Sử gia Ngô Sĩ  Liên thế kỷ XV đã bình luận đoạn này như sau: "Con cháu Thần Nông thị là  Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ  của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc  Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó  chẳng phải là cái đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?"[1]. Kể  từ sau Ngô Sĩ Liên, phần lớn các bộ lịch sử Việt Nam đều công nhận Kinh  Dương vương là thủy tổ của nước Việt. Ví dụ như sách Thiên Nam minh  giám (thế kỷ XVII) mở đầu như sau:
"1-   Tượng mảng xưa sách trời đã định,
Phân cõi bờ xuống thánh sửa sang,
Nước Nam từ chúa Kinh Dương,
Tày nhường phải đạo mở mang phải thì.
5-   Tới Lạc Long  nối vì cửu ngũ,
Thói nhưng nhưng  no đủ đều vui,
Âu Cơ  gặp gỡ kết đôi,
Trổ sinh một bọc trăm trai khác thường.
Xưng Hùng Vương cha truyền con nối,
10-  Mười tám đời một mối xa thư,
Cành vàng lá ngọc xởn xơ,
Nước xưng một hiệu năm dư hai nghìn."[2]
Đến thế kỷ XVII, Kinh Dương Vương đã chính thức được văn hóa dân gian  đưa vào thờ làm vị thủy tổ trong đền ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành,  huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh (ngày nay). Năm 1840, đền cho dựng bia  đá "Kinh Dương Vương lăng". Năm 1940, đời vua Bảo Đại, đền làm thêm hai  đại tự "Nam Tổ miếu" và "Thần truyền thánh kế". Năm 2000, nhà thơ Nguyễn  Khoa Điềm đã về thăm đền và để lại bút tích gợi ý tỉnh Bắc Ninh có đề  xuất lên trung ương nâng cấp cơ sở thờ tự của tổ tiên. Năm 2009, Chủ  tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đã đến thăm đền và để lại những lời kỷ  niệm sâu sắc về cội nguồn dân tộc[3]. Năm 2012, các tác giả Trần Quốc  Thịnh, Đỗ Văn Sơn, Biện Xuân Phẩm đã xuất bản cuốn sách “Nam Bang Thủy  Tổ Kinh Dương Vương” - Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. Sách tập hợp các tư  liệu từ “Đại Việt Sử ký toàn thư”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Thủy Kinh  chú”… từ các truyền thuyết, văn bia, thần phả, thần tích cũng như công  trình nghiên cứu, tham luận của các học giả, nhà sử học. Ngày 25 tháng 2  năm 2013, tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức lễ hội kỷ niệm 4892 năm Đức thủy tổ  khai sinh mở nước. Đến dự lễ khai hội có Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn  Thiện Nhân và lãnh đạo một số Bộ, ngành.
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cùng các đại biểu dâng hương tưởng niệm Đức Thủy tổ Kinh Dương Vương. Ảnh: dangcongsan.vn -
Sau lễ dâng hương, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã dự lễ khởi công  Dự án tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích Lăng và Đền thờ  Kinh Dương Vương. Theo quy hoạch đã được tỉnh Bắc Ninh phê duyệt, dự án  có tổng diện tích gần 40ha, gồm không gian bảo tồn di tích, không gian  phát huy giá trị di tích, không gian quản lý và dịch vụ phụ trợ, với  nguồn vốn đầu tư gần 500 tỷ đồng[4]. Như vậy, sau nhiều trăm năm tồn  tại, tín ngưỡng thờ Kinh Dương Vương đến nay đã chính thức được sự đồng  thuận của nhà nước. 
Kinh Dương Vương- từ nhân vật của truyện truyền kỳ Trung Hoa 
Tuy nhiên, như ngay ở đầu bài viết, chúng tôi có ý nghi vấn rằng,  Kinh Dương Vương chưa chắc đã là một nhân vật lịch sử có thật, mà có thể  đó chỉ là một sự nhầm lẫn của Ngô Sĩ Liên khi ông đã sưu tầm một câu  chuyện văn học để mở đầu cho một công trình sử học của nước nhà. Chứng  cớ nào đề chúng tôi có thể đi đến nghi ngờ như vậy?
Chứng cứ nằm ngay trong Toàn thư, sau khi viết về lai lịch, cuộc đời  của Kinh Dương Vương, Ngô Sĩ Liên đã viết: “Xét Đường kỷ chép: thời Kinh  Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình  Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với  Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia  với nhau đã từ lâu rồi”[5]. Nhưng chúng ta còn thấy chuyện này được chép  trong sách Lĩnh Nam chích quái (một tác phẩm văn học sưu tầm những  chuyện quái dị ở Lĩnh Nam) của Trần Thế Pháp (thế kỷ XIV?)[6], rồi sau  đó lại được sao chép nguyên vẹn vào trong thần tích của Mẫu Thoải tại  Tuyên Quang[7].
Cần nhắc lại ở đây ghi chép về nguồn Đường kỷ của Ngô Sĩ Liên là một  gợi ý hữu ích cho những người nghiên cứu sau này. Từ gợi ý đó, một số  học giả đã tìm ra cả chục văn bản văn học Trung Quốc có chép câu chuyện  này. Lần xa hơn nữa, các học giả đều thống nhất cho rằng, truyện Kinh  Dương Vương có sự sao chép từ tiểu thuyết Liễu Nghị truyện (柳毅傳) do Lý  Triều Uy sáng tác vào đời Đường[8]. Truyện có thể tóm tắt như sau: Liễu  Nghị là một nho sinh thi trượt, trên đường gặp một thiếu phụ chăn dê  xinh đẹp nhưng dáng vẻ tiều tụy. Người phụ nữ ấy nói rằng mình là con  gái của Long Vương ở hồ Động Đình, vốn lấy con trai thứ của Kinh Xuyên,  nhưng bị bạc đãi, bắt đi chăn dê, nên muốn nhờ Liễu Nghị chuyển thư đến  cho cha để báo tình cảnh của mình. Liễu Nghị đem thư xuống Long cung. Em  trai Long Vương là Tiền Đường giận quá nên giết con trai của Kinh  Xuyên, cứu cháu về, rồi định gả cho Liễu Nghị. Nghị từ chối, xin về,  được Long vương ban cho nhiều vàng bạc châu báu. Sau Liễu Nghị lấy vợ,  lần nào lấy xong vợ cũng chết. Con gái Long Vương thấy vậy bèn nhớ lại  duyên cũ, muốn báo đáp bèn hóa làm người con gái xinh đẹp mà lấy Liễu  Nghị làm chồng. Sau hai vợ chồng đều thành tiên[9]. 
“Liễu Nghị truyện” được coi là một truyện truyền kỳ sớm nhất của  Trung Quốc. Từ cuối đời Đường, truyện được lưu hành rộng rãi trong dân  gian. Đến thời Tống trở đi, truyện Liễu Nghị được Thượng Trọng Hiền  chuyển thể sang kịch bản tạp kịch với tên “Động Đình hồ Liễu Nghị truyền  thư”[10]. Liễu Nghị đã trở thành một tích truyện rất được ưa thích  trong văn hóa diễn xướng của người Trung Quốc. Hàng loạt các tác phẩm  nổi tiếng đã ra đời, như nhà Tống có Liễu Nghị đại thánh nhạc, nhà Kim  có Liễu Nghị truyền thư của Gia Cùng Điệu, triều Nguyên có Liễu Nghị  Động Đình long nữ (Nam hí), thời Minh Thanh có Quất bồ ký của Hứa Tự  Xương, Long tiêu ký của Hoàng Thuyết, Long cao ký của Dương Ban, Thẩn  trung lâu của Lý Ngư, Thừa long giai thoại của Hà Phủ[11].
Cho đến nay, Liễu Nghị truyền thư (còn có tên Thủy tinh cung, Liễu  Nghị kỳ duyên) vẫn được người Trung Quốc coi như là một kịch mục kinh  điển của hý kịch Trung Hoa. Từ năm 1952, vở kịch này đã nhiều lần được  dàn dựng bởi các đạo diễn khác nhau, số lần trình diễn có lẽ là khá  nhiều, hiện chưa thể thống kê hết được[12]. Không những thế, tích truyện  này đang có xu hướng được áp dụng sang các hoạt động văn hóa khác hiện  nay ở Trung Quốc. Ví dụ, người ta lấy đề tài này làm tranh khắc ván, thư  họa truyền thống (thủy mặc).
Ngày 17 tháng 7 năm 2004, Bưu cục Quốc gia Trung Quốc đã  phát hành seri tem “Dân gian truyền thuyết- Liễu Nghị truyền thư”, gồm 4  con tem với 4 hoạt cảnh: “Long nữ gửi thư”, “Thư gửi Động Đình”, “Cốt  nhục đoàn tụ”, và “Nghĩa trọng tình thâm”[13].
Và những nhận định của sử gia đời sau 
Đến đây có thể nhận định về nguồn gốc của các mô típ, các nhân vật,  cũng như địa danh trong truyện Kinh Dương Vương được chép trong Đại Việt  sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên đã tình cờ đem một số chi tiết của truyện  Liễu Nghị để ghép với các huyền thoại khác như Lạc Long Quân- Âu Cơ, và  coi đó như là nguồn gốc khởi đầu cho sự xuất hiện của Hùng Vương- cái  triều đại mà người Việt ngày nay coi như là lịch sử đích thực của mình.  Nhưng, với một tác phẩm có ảnh hưởng lớn như vậy, các nhà Nho Việt Nam  trong nhiều thế kỷ hẳn cũng phải biết đến. Bằng chứng là nhà thơ nổi  tiếng Thái Thuận (Tiến sĩ 1475) cũng đã sáng tác bài thơ Liễu Nghị  truyền thư. Nhưng đó là chuyện của văn học.
Còn với tư cách là những người viết sử, không ít sử gia thời Trung  Đại đã phản đối cách lắp ghép của Ngô Sĩ Liên. Đầu tiên, phải kể đến  những nhận định của Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử kí tiền biên. Ông viết:  “Nay xét phần Ngoại kỉ chép: Năm Nhâm Tuất thì bắt đầu Giáp Tí là năm  nào? Ghi chép tên húy Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sao riêng lược bỏ  Hùng Vương? Thời Ngũ Đế trở về trước thì chưa từng gọi là vương. Xích  Quỷ là tên nào, mà lại để làm tên nước. Một loạt hoang đường càn rỡ đều  là đáng bỏ đi. Cái lỗi ấy là tại kẻ hiếu sự thấy trong Liễu Nghị truyền  thư. Trong truyện nói con gái vua Động Đình gả cho con thứ của Kinh  Xuyên Vương, tưởng càn Kinh Xuyên là Kinh Dương. Đã có vợ chồng thì có  cha con, vua tôi, nhân đó mà thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua,  nhà làm sử theo đó mà chọn dùng, và cho đó là sự thực. Phàm những chuyện  lấy từ Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, cũng như Bắc sử lấy ở  Kinh Nam Hoa và thiên Hồng Liệt đấy.”[14] 
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1856 - 1883) viết: “Vâng  tra sử cũ, danh xưng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân trong ‘Kỉ họ Hồng  Bàng, vốn từ thời Thượng cổ, thuộc thuở hồng hoang, tác giả căn cứ vào  cái không và làm ra có, sợ rằng không đủ độ tin cậy, lại phụ hội với  Liễu Nghị truyện của nhà viết tiểu thuyết đời Đường, lấy đó làm chứng  cứ”[15] . Chuẩn tâu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã  nhận định đây  là những “câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có  chuẩn tắc” và kiên quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử  bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng Vương, để “cho hợp với cái  nghĩa lấy nghi truyền nghi”[16].  
Qua những trình bày ở trên, độc giả đã phần nào mường tượng ra con  đường thu nhận biến đổi tích truyện từ truyện Liễu Nghị đến truyện Kinh  Dương. Đây sẽ là những tư liệu thú vị để nghiên cứu về tiếp xúc văn học  văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa. Đồng thời cũng là “mẫu sử liệu” thú  vị cho giới nghiên cứu khám nghiệm và giám định. Đến đây, chúng tôi xin  mượn lời của giáo sư Liam Christopher Kelley (Đại học Hawaii) để kết  thúc bài viết này: trải qua nhiều thế kỷ, những truyền thống mà họ [các  sử gia] sáng tạo đã trở thành cái tự nhiên thứ hai (second nature). Thực  tế, trong nửa thế kỷ qua, dưới sự ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc,  những truyền thống được sáng tạo ấy (invented traditions) đã và đang trở  thành những sự thực không thể thay đổi[17].
Ts Trần Trọng Dương
[1] Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các  quan bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 1. Ngô Đức Thọ dịch chú, Hà  Văn Tấn hiệu đính. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.131-133.
[2] Trịnh thị. (1624-1657). Thiên Nam minh giám. tr.4a. (Thư viện Khoa  học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh , ký hiệu HNv.006) trang 1a. Tham khảo  phần phiên khảo của Hoàng Thị Ngọ, (1994). Nxb Văn học. Hà Nội.
[3] Thọ Bình - Bá Kiên. Đầu năm thăm lăng Kinh Dương Vương ( ông nội vua Hùng ). Theo tienphong.vn
[4] Việt Cường. Bắc Ninh khai hội Kinh Dương Vương. 
http://vtv.vn
[5] Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. sdd. tr.133.
[6] Trần Thế Pháp. (XIV?). Lĩnh Nam chích quái. ký hiệu. A.1200 (Viện NC Hán Nôm), tr.4a-4b.
[7] Nguyễn Thanh Tùng. 2010. Giao lưu tiếp biến văn hoá Trung - Việt  trong lịch sử: khảo sát sự tiếp nhận tích truyện Liễu Nghị truyền thư ở  Việt Nam thời trung đại. Hội thảo Quốc tế giao lưu Văn hóa Việt Nam  Trung Hoa. Tp Hồ Chí Minh.
M. Durrand. 1959. Technique et Pantheon des médiems Vietnamien. BEFEO.  Vol.XLV, Paris. [chuyển dẫn Ngô Đức Thịnh. 2009. Đạo mẫu Việt Nam.(Tập  1) Nxb Tôn giáo. Hà Nội. tr.63- 64.
[8] Tiền Chung Liên vcs (tổng chủ biên). tb2000. Trung Quốc văn học đại  từ điển (thượng). Thượng Hải từ thư xuất bản xã. Thượng Hải. tr.277.
[9] Tiền Chung Liên vcs (tổng chủ biên). tb2000. sdd. Tr.409.
Bản dịch tiếng Việt có thể tham khảo : Lí Triều Uy, Liễu Nghị truyện,  Xuân Huy dịch, in trong “Tuyển dịch một số truyện truyền kì ưu tú thời  Đường Tống”, Tạp chí Hán Nôm, 1990. – Số 2 (9). - Tr.90-109.
[10] Tiền Chung Liên vcs (tổng chủ biên). tb2000. sdd. Tr. 831.
[11] Tiền Chung Liên vcs (tổng chủ biên). tb2000. sdd. Tr. 831.
[12] Quý vị có thể copy chữ Hán “柳毅传书” xem các trích đoạn vở kịch này trên 
http://www.youtube.com
[13] 
http://www.fhstamp.com/bbs/read.php?tid=784
[14] Ngô Thì Sĩ (soạn), Ngô Thì Nhậm (tu đính). 1800 (khắc in). Đại Việt  sử ký tiền biên. Bắc Thành học đường tàng bản.  Ký hiệu A2/2-7. Lê Văn  Bảy, Dương Thị The, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Thị Thoa (dịch), Lê Duy Chưởng  (hiệu đính). Nxb KHXH.H.1997. tr.40.
[15] Quốc sử quán triều Nguyễn (1856 - 1883), Khâm định Việt sử thông  giám cương mục, quyển I, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: R.591, tờ  4a- 5b.
[16] Quốc sử quán triều Nguyễn (1856 - 1883), sdd. R.591, tờ 9b-10a.
[17] Liam C. Kelley. The Biography of the Hồng Bàng Clan as a Medieval  Vietnamese Invented Tradition. Journal of Vietnamese Studies Vol. 7, No.  2 (Summer 2012), p. 122.
 
 Nguồn: Tia Sáng và đưa lại trên tranhung09.blogsspot.com