Nhận thấy bài viết đề cập cùng chủ đề của blog Bách Việt và tập trung vào hai vấn đề lịch sử có nhiều khuất tất nhất và  dường như đang bị "quên lãng" bởi chính người Việt Nam, đó là a) nguồn gốc và mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam và Bách Việt nói chung (?); b) người Việt có chữ viết riêng hay không và tiếng Việt vay mượn tiếng Hán hay ngược lại (?), chủ blog tôi xin giới thiệu để cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho bạn đọc. Hy vọng tài liệu này  sẽ góp phần trả lời một số thắc mắc đồng thời  thúc đẩy hơn nữa công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc ta theo hướng khách quan và tôn trọng  sự thật lịch sử dựa vào không chỉ sử sách cũ mà tất cả các nguồn dữ liệu mới trên cơ sở khoa học khảo cỗ và nhân chủng học hiện đại. Sự hiểu biết đúng đắn và đầy đủ về cội nguồn dân tộc sẽ giúp người Việt Nam thật sự thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp và lấy lại tâm thế đáng có của mình.       
               Viết lại tên Bách Việt
                                                                                   Tác giả: Nguyễn Đại Việt(*)                                                                                                                                                                     
Sau khi hợp lực đánh                đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé                bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và                diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng                lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết,                Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa                đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết                gọi là Hán ngữ.Hình 1: Chữ "Việt"                (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ "tẩu"                (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ý nghĩa và chữ "người                cầm qua" (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát                âm là "Việt" có hình tượng giống như một người cầm cái                qua (戈). Trong Hán ngữ chữ "qua" (戈) có nghĩa là "cái                mác" hoặc "chiến tranh". 
Trong khoảng từ năm 109                đến năm 91 TCN, Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng                Hán ngữ biên soạn bộ Sử Ký dài 130 tập, theo chú thích trong Đại                Việt Sử Ký Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt                trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Ký nổi tiếng đó. "Bách                Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại là 百 越.
 
Một bộ sử khác do Ban                Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo                vào thời Tây Hán chép rằng:
“Trong vòng bảy                hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có                Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” 
Bách Việt mà hai bộ Sử                Ký và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn,                bao trùm toàn cõi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ                Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu                diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lãnh thổ.
Theo Hán ngữ hiện đại,                tên các thị tộc của Bách Việt được viết là 於 越 (Ư Việt), 揚 越 (Dương                Việt), 閩 越 (Mân Việt), 南 越 (Nam Việt), 東 越 (Đông Việt), 山 越 (Sơn                Việt), 雒 越 (Lạc Việt), 甌 越 (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn                liền với chữ 越, gọi là "chữ Việt bộ Tẩu". "Tẩu"                có nghĩa là "chạy" nhưng không hiểu vì sao sử gia Lê Văn                Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) năm                1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển                Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ "Việt                bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán.
Bài viết này gồm 2 phần.                Phần chính giới thiệu chữ "Việt" nguyên thủy của người                Việt cổ đồng thời chứng minh "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà                Tây Hán là một bản dịch sai của chữ "Việt" đó. Phần còn                lại, phần phụ, trình bày một cái nhìn, một cảm nhận cá nhân về chữ                "Việt" của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN.
 CHỮ "VIỆT"                CỦA BÁCH VIỆT
Tại sao chủng tộc Bách                Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc                thái nào của mình? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng                làm chủ một lãnh thổ rộng lớn lại mang ý nghĩa bi quan như thế?                
Ngày nay, khi tìm hiểu                ý nghĩa chữ "Việt" giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc                nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có                những nổ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ "Việt                bộ Tẩu", nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích                thuyết phục nào được công nhận một cách rộng rãi. Sỡ dĩ có sự bế                tắc đó là vì họ đã nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ 越 hay                "Việt bộ tẩu" không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó                chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đình Tây                Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã                xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm.
Từ văn tự cổ đến trống                đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua                Câu Tiễn, chúng ta sẽ tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt                là gì, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi                Tư Mã Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ " Việt bộ Tẩu"                (越) trong bộ Sử Ký của ông đến nay. Trong phần này các chữ "Việt"                thuộc thời đại đồ đồng sẽ được trình bày và phân tích. Kế đó, thành                phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của                chữ "Việt bộ Tẩu" và chữ "Việt bộ Kim".
1. Chữ "Việt" nguyên                thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng
Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm                trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn                còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết                khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai                loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn                tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm                1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung                quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người                Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 chữ thuộc văn                tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ "Việt"                được ghi nhận. Xin lưu ý là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng                trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một                website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears.
Sau đây là 5 chữ "Việt"                viết bằng loại "chữ chim", có nơi gọi là "chữ sâu                bọ và chim", một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các                nước Sở, Việt, và Chu. 
a) Chữ "Việt" mang                ký hiệu B01747  
Hình 2: Một chữ "Việt"                trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01747:
- Người đeo lông chim trên đầu và                thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là "Người Chim".
- Người Chim đứng với hai chân dang                rộng, tay cầm một cây gậy dựng đứng trên mặt                đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ.
- Chữ này chỉ có một thành phần là                chính nó.
- Niên đại: không rõ.
b) Chữ "Việt" mang                ký hiệu B01748  
Hình 3: Một chữ "Việt"                trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01748:
- Thành phần bên phải là Người Chim.
- Tay Người Chim cầm một vật giống                như cái qua (mác).
- Người Chim trong tư thế của một                vũ điệu.
- Thành phần bên trái là ký tự gồm                một hình tròn nằm trên chữ mang hình tượng có đầu tròn to với một                cái đuôi. 
- Niên đại: không rõ.
c) Chữ "Việt" mang                ký hiệu B01750  
Hình 4: Một chữ "Việt"                trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01750:
- Thành phần bên phải là Người Chim.
- Thành phần bên trái gồm một hình                tròn nằm trên ký tự có hình tượng giống thân rắn với 2 sừng.
- Niên đại: không rõ.
d) Chữ "Việt" mang                ký hiệu B01751  
Hình 5: Một chữ "Việt"                trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01751:
- Thành phần bên phải là Người Chim                trong tư thế nhảy múa. 
- Người Chim không cầm qua hoặc binh                khí.
- Thành phần bên trái là một hình                tròn nằm trên một cái đầu có đuôi cong.
- Niên đại: không rõ.
e) Chữ "Việt" mang                ký hiệu B01749  
Hình 6: Một chữ "Việt"                trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01749:
- Thành phần bên phải là Người Chim.
- Tay phải của của Người Chim cầm                một vật có hình dạng của một cái qua.
- Thành phần bên trái gồm một hình                tròn có chấm bên trong và nằm ngay trên ký tự có hình tượng uốn                lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt.
- Niên đại: 496 - 465 TCN. Đây là                chữ "Việt" được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn                nước Việt (khác với Việt Nam).
Kết luận:                Khảo sát các chữ "Việt" trên đây chúng ta rút ra được                2 điểm quan trọng,
- Thứ nhất, chữ "Việt" nguyên                thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN,                nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà                Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ.
- Thứ hai, yếu tố chủ đạo                của các chữ "Việt" là "Người Chim". "Qua"                hay binh khí là yếu tố phụ.
2. Chữ "Nước" (Quốc                gia) trong thời đại đồ đồng
Theo định nghĩa của chữ 邑 (ấp), một                trong các ý nghĩa của nó là "nước" hay "quốc gia".                Ví dụ như "nước Chu" (邾: Chu quốc) hay "nước Hàn"                (邗: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc. 
Hình 7: Chữ "ấp" trong                thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là "nước", "quốc                gia", "kinh đô, "thành thị" hoặc là vùng đất                được vua ban cho.
Hình 8: "Chu quốc" nghĩa                là "nước Chu" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái)                và thời chữ Triện (phải). 
Trong chữ "Chu quốc" nghĩa                là "nước Chu" (hình 8), chữ "nước" được đặt                sau chữ "Chu", khác với cách viết của người Việt là chữ                "nước" được đặt trước như trong các chữ "Việt"                của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương                tự, chữ "nước" được dùng trong chữ "Hàn quốc"                (nước Hàn) trong hình 9.
Hình 9: "Hàn quốc" nghĩa                là "nước Hàn" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái)                và theo lối chữ Triện (phải). 
Hiện nay có tất cả 31 chữ "邑" (ấp) thuộc                thời kỳ đồ đồng (hình 7) được ghi nhận. 
3. Chữ "Tẩu" trong                thời đại đồ đồng
 Chữ 走 (Tẩu) là thành phần bên trái                của chữ 越, chữ "Việt bộ Tẩu", viết theo Hán ngữ hiện đại.
Hình 10: Chữ "Tẩu" (Hán                ngữ hiện đại: 走) trong thời kỳ đồ đồng.
So sánh chữ "nước" (hình                7) với chữ "tẩu" của thời kỳ đồ đồng (hình 10) thì hai                chữ này hoàn toàn khác nhau từ hình thức đến nội dung. Hơn nữa "nước"                là một danh từ còn "tẩu" là một động từ. Hiện có 17 chữ                "Tẩu" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (hình 10).
4. Chữ "Kim" thời                đại đồ đồng
Trong hình 11 và phía trên là một                số cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng. Ở dưới                và bên phải là chữ "Gươm", chữ cuối trong 8 chữ được khắc                trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ "Gươm"                chính là chữ "Kim".
Hình 11: Các cách viết chữ "Kim"                trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ "Kim" là phần trái                của chữ "Gươm" (hình dưới, bên phải) và chữ "Nước"                là phần trái của chữ "Việt" (hình dưới, bên trái) trên                thanh gươm của vua Câu Tiễn. 
Cũng trong hình 11, ở dưới và bên                trái, chữ "Việt" là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh                gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ "Việt" không                thể là chữ "Kim" vì không bao giờ có 2 chữ "Kim"                khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm                của một ông vua. Hơn nữa về hình thức thì 2 chữ 邑 (Ấp, hinh 7) và                金 (Kim, hình 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ                "Kim" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận. 
Kết luận: Thành                phần bên trái của chữ "Việt" nguyên thủy chính là chữ                "邑" (ấp) và được viết bằng "văn tự chim", một                loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt,                và Chu.  
5. Chữ "Người Chim"                trong chữ "Việt" nguyên thủy và chữ "người cầm qua"                (戉) trong "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán
Chữ "Việt bộ Tẩu" của triều                đình nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần                bên trái là chữ "Tẩu" dùng để xác định ý nghĩa của toàn                chữ và phần bên phải là chữ "Việt" dùng để phát âm (hinh                12).
Hình 12: "Việt bộ tẩu"                viết theo Hán ngữ hiện đại.
Chữ bên phải của chữ "Việt bộ                Tẩu" mang hình tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ                戈 của Hán ngữ và có nghĩa là "Qua", 'Mác" hay "Chiến                tranh". Chữ 戉 (người cầm qua) trong chữ "Việt bộ Tẩu"                không phải là thành phần cấu tạo của chữ "Việt" nguyên                thủy. 
Hình 13: Một cách dịch chữ "Người                Chim" của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ý là Hán                ngữ không có chữ này.
Thật vậy, từ chữ "Việt"                trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở                Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng                nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện                và yếu tố đó chính là "Người Chim" tay cầm qua hay binh                khí (hình 13).
Hình 14: "Người Chim" trên trống đồng                Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia.
Cho đến nay số lượng chữ "Việt"                thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan                trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh                thức. Vì vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ "Việt"                nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo "văn tự chim"                thì xác xuất để nó mang cùng nội dung và hình thức với 5 chữ "Việt"                trình bày trên đây rất cao.
Hình 15: Một ví dụ                của chữ "Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ                "Việt" nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (邑: nước), bên                phải là chữ "Người Chim" tay cầm qua và phát âm là "Việt".                Toàn chữ viết và đọc là "nước Việt". Trong Hán tự không                có chữ này. Hán ngữ hiện đại dùng chữ 國 (quốc, nước, quốc gia) thay                thế cho chữ 邑 (ấp, nước, quốc gia).
Kết luận: Chữ                "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại từ 496                - 465 TCN, viết bằng "văn tự chim", xuất hiện trước chữ                "Việt bộ Tẩu" bằng Hán ngữ của nhà Tây Hán ít nhất 300                năm. Chữ "Việt" của Bách Việt được cấu tạo bởi hai thành                phần duy nhất là chữ "Nước" (邑: ấp, quốc gia) ở bên trái                và chữ "Người Chim" tay cầm qua ở bên phải. "Người                Chim" là yếu tố chủ đạo, phát âm là "Việt", "qua"                hay binh khí là yếu tố phụ (hình 15).
oOo
Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc                đã được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên                trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân                tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây                Hán hoặc hiện đại thì nội dung và hinh thức của chữ 越, chữ Việt                bộ tẩu và 2 thành phần của nó 走 và 戉, hoàn toàn không phải là chữ                "Việt" của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch                từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã có trước khi nhà Tây                Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về                Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với                bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ                Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính                trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn                được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách                tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt.
PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ                "VIỆT" SANG HÁN NGỮ 
Chúng ta bắt đầu phần này bằng một                câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía                đông của Hoa lục. " Oa" viết theo Hán ngữ là 倭, là tên                do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế                kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đình Trung Hoa.
Mãi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám                phá ra thâm ý phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập                tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa (倭) mang ý nghĩa châm                biếm và xúc phạm như "phục tùng" hay "thằng lùn",                còn tên mới 和 có nghĩa là "hài hòa, hòa bình, và quân bình.                "Đại Hòa" (大 和) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ                8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái                gọi họ là "con cháu Thái Dương Thần Nữ". Đó là đất nước                và dân tộc Nhật Bản (日本).
Trong phần chính chữ "Việt"                được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng                cớ cụ thể đã được công nhận. Trong phần này ý nghĩa của chữ "Việt"                trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo                phong tục tập quán của người Việt và vì vậy cách dịch chữ "Việt"                ở đây có thể không hoàn toàn khách quan.
1. Chính sử: Thanh gươm của                vua Câu Tiễn
Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm                vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy                giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh                đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang                là nơi có con sông Tiền Đường, giòng sông nơi Thúy Kiều gieo mình                tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân                Kiều của Nguyễn Du. 
Hình 16: Thanh gươm của vua Câu                Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng                Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko.
Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của                vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước                Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây. 
Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người                Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được                thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng                bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (hình 16). 
2. Chữ "Việt" trên                thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nhìn khác
Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường                của chữ "nước" ( 邑) trong chữ Việt trên thanh gươm so                với chữ "nước" ( 邑) của các chữ "Việt" khác                trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng                cho phần này, ngoài "Người Chim", trong chữ "Việt"                còn có thêm 2 yếu tố khác.
Hình 17: Tám chữ cổ khắc trên                thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu                ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là "Việt                Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm" có nghĩa là "Thanh gươm                của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng". Hán tự không có                chữ "Gươm". Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ                "Gươm" và "Kiếm" trong bài "Chữ Kiếm trong                thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn". Nguồn: Wikipedia.
Trong hình 18, theo nhận xét thiên                về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học                và ngữ văn thì chữ "Việt" trên thanh gươm gồm 3 thành                phần thay vì 2 như đã trình bày. Ba thành phần đó là các chữ "Mặt                Trời", "Rồng", và "Người Chim".
Hình 18: Chữ "Việt"                (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu                tạo của nó.
Trong các phần kế tiếp, các chữ "Mặt                Trời" và "Rồng" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn                sẽ được so sánh với cách viết các chữ "Mặt Trời" và "Rồng"                trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn                khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với                các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Nguời Chim"                trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối                cùng, huyền sử "Rồng Tiên" phát xuất từ đời sống thực                tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc                thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ                với các chủng tộc khác. 
3. Chữ "Mặt Trời"                trong Giáp Cốt Văn và trong chữ"Việt" trên thanh gươm                của vua Câu Tiễn
Theo Giáp Cốt Văn (hình 19) và cổ                ngữ trong thời đại đồ đồng (hình 20), chữ "Mặt Trời" được                viết như là một hình tròn hoặc là một hình có 4 cạnh với một cái                chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. Hình thức hay cách viết của                chữ "Mặt Trời" trong các thời kỳ đó thì duy nhất, nghĩa                là:
a. Không có bất kỳ chữ nào mang ý                nghĩa khác được viết với hình thức đó.
b. Bất kỳ chữ nào được viết với hình                thức như vậy đều có nghĩa là "Mặt Trời".
Vì vậy, một thành                phần của chữ "Việt", chữ thứ hai tính từ trái sang phải                trong hình 18, được xem là chữ "Mặt Trời".
Hình 19: Chữ "Mặt Trời"                trong thời đại Giáp Cốt Văn. 
Hình 20: Chữ "Mặt Trời"                trong thời đại đồ đồng.
4. Chữ "Rồng" trong                Giáp Cốt Văn và trong chừ "Việt" trên thanh gươm của vua                Câu Tiễn
Trong Giáp Cốt Văn (hình 21), chữ                "Rồng" là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu                to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện. 
      
Hình 21: Bên phải là một số cách                viết chữ "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là                một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm                của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của Giáp Cốt văn,                có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.
5. Chữ "Rồng" trong                thời đại đồ đồng và trong chữ "Việt" trên thanh gươm của                vua Câu Tiễn
Hình 22 trình bày là các chữ "Rồng"                trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ "rồng"                được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và                đội vương miện. 
Hình 22: Bên                phải là các cách viết chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng.                Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên                thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của thời                đại đồ đồng, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có                mắt và 2 sừng.
So với chữ "Rồng" của các                thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng thì một trong các thành phần cấu                tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ                thứ 3 tính từ trái sang phải trong hình 18 được cho là chữ "Rồng".
6. Trống đồng: Chính sử của                Bách Việt
Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam                bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận.                Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng                sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của                Lạc Việt còn lưu lại là quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) của sử gia Lê                Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào                năm1272. 
May thay, để bổ sung phần nào vào                thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật                của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong                các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đã được xác lập:
- Hán tộc không có trống đồng. 
              - Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo. 
              - Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống                thực tế của người Việt cổ.
Vì vậy trống đồng là một quyển chính                sử của chủng tộc Bách Việt.
7. "Mặt Trời" trong                chính sử trống đồng
Về yếu tố "Mặt                Trời" thì hiển nhiên không cần lời giải thích dài dòng vì tất                cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính                giữa tang trống. Do đó "Mặt Trời" đương nhiên là một yếu                tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ.
Hình 23: Một                ví dụ của chữ "Việt" nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ                hiện đại. Nó gồm chữ "Nhật" (Hán ngữ: 日 nghĩa là mặt trời                - phần bên trái và nằm ở trên), chữ "Long" (Hán ngữ: 龍                nghĩa là "rồng" - phần bên trái, ở dưới), và bên phải                là chữ "người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm                cái qua" , lưu ý là Hán ngữ không có chữ này.
8. "Rồng" từ đời                sống thực tế đến huyền sử
Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu                chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có                thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và                Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm mình, Đại Việt                Sử Ký Toàn Thư chép như sau:
              Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các                thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng                làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình.                Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa. 
              Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xâm mình                để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm mình là                để thuồng luồng hay giao long "tưởng" họ cùng đồng loại                nên sẽ không bị chúng gia hại. 
Thoạt tiên mục đích xâm mình đơn thuần                chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự                nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được                hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau.                Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên                một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống                thực tế hằng ngày của người Việt cổ, nên "Rồng" được xem                là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt.
9. "Người Chim"                trong chính sử trống đồng
Tùy theo niên đại và thị tộc khác                nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và                những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng                đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở                trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự hình thành khái niệm “con                Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang                thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của                người Việt cổ. 
oOo
 Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là gì                thì câu trả lời nên là: Việt là "Mặt Trời", là "Rồng",                là "Người Chim" (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận                diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất                từ đời sống thực tế qua phong tục xâm mình, còn khái niệm Rồng của                Hán tộc thì bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc                phần phụ lục.
KẾT LUẬN
Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi                tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v... mà họ lại đặc biệt làm                điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và                chúng có thể không giống nhau. "Việt" là tên gọi chung                của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng "Việt"                thì có khã năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo                nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của                Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự                trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô,                và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của                Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh                thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các                quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa                của Hai Bà Trưng năm 40, v.v... Nói chung nếu không tiêu diệt và                đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình                định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách                ấy với việc cấm dùng chữ "Việt" nguyên thủy và thay bằng                một tên khác, chữ "Việt bộ Tẩu", người Hán đã thành công                lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang                tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn                cứ cuối cùng của Việt tộc.
Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không                kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng,                cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ                qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đã liên tục bị tiêu                diệt trong suốt hơn 1000 năm, lãnh thổ thì mất cả chỉ còn lại một                dãi nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn                phần đầu, có chăng thì cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch                sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô                Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành trì cuối cùng của Bách                Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938. 
Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính                sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống                đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không                những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự                nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà còn có bổn phận đào xới                và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lãnh                thổ rộng lớn và trù phú. Vì vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi                đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng                thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó                có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt                cổ.
Thung lũng Hoa vàng
Mồng Một Tết Nhâm Thìn tức ngày 23                tháng 1 năm 2012
(*)Tác giả Nguyễn Đại Việt là tiến                sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated                Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành                viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.