Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014

Thất bại trong quá khứ và bài học cho hôm nay

Tầu Trung Quốc tấn công tầu VN. Ảnh: CS Biển VN
Tầu Trung Quốc tấn công tàu VN bằng vòi rồng. Ảnh: CS Biển VN
Việc đưa dàn khoan vào khu vực biển của Việt Nam, Trung Quốc đã gần như lật ngửa ván bài của một chính sách đối ngoại dựa trên bạo lực hơn là đàm phán hòa bình.  Trong khi đó, Việt Nam còn quá yếu về mọi mặt để có thể tạo thế đối đầu có trọng lượng với Trung Quốc.  Việt Nam ở thế tiến thoái lưỡng nan vì không thể leo thang và chạy đua trong chính sách ngoại giao bạo lực với Trung Quốc, nhưng cũng không có đường lùi và không thể nhượng bộ.

Tóm lại, mọi động thái ứng xử của Việt Nam hiện nay vẫn rất lúng túng, và mục đích chính vẫn chỉ để trì hoãn, hơn là thực sự giải quyết vấn đề về lâu dài trên cơ sở hòa bình.  Vận mệnh của Việt Nam do vậy đang là “ngàn cân treo trên sợi tóc”.  Câu trả lời hoàn toàn phụ thuộc vào sự tỉnh táo của Việt Nam vào lúc này.
Để có được sự tỉnh táo, ngoài niềm tự hào về lịch sử giữ nước vẻ vang, Việt Nam cũng cần nhìn vào những thất bại trong lịch sử để từ đó rút ra bài học cho các quyết sách sáng suốt đối phó với Trung Quốc.
Bài viết này tập trung vào thất bại quân sự của triều Hồ năm 1407 và thất bại của Việt Nam năm 1975-1977 trong bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Tây Âu, vì những giai đoạn này có rất nhiều tương đồng sâu sắc với thời điểm hiện nay.
Thời Hồ Quý Ly và những bài học đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay 
Lịch sử chống ngoại xâm là đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam và giữ vai trò định đoạt sự tồn vong của dân tộc trước nguy cơ xâm lược và đô hộ.  Chính cuộc đấu tranh sống còn này đã rèn luyện nên nhiều phẩm giá cao quý và phát huy đến cao độ trí thông minh, sáng tạo của dân tộc.  Vì vậy, lịch sử chống ngoại xâm là niềm tự hào vô tận của dân tộc.  Tuy nhiên, trong nhiều giai đoạn, lịch sử Việt Nam không được thể hiện đầy đủ và khách quan, quá nhấn mạnh các thắng lợi của các cuộc kháng chiến, dẫn đến việc đơn giản và thậm chí không phản ảnh hết tính ác liệt đến tàn khốc của các cuộc kháng chiến, và đặc biệt là những thất bại về quân sự của Việt Nam trước các thế lực xâm lược phương bắc.
Một thất bại quân sự cay đắng trong lịch sử vệ quốc của Việt Nam là của Hồ Quý Ly với cuộc xâm lăng của nhà Minh.  Một điểm đáng kinh ngạc là những thách thức của vương triều Hồ với quân xâm lược phương bắc vào năm 1400-1407 là hoàn toàn giống với những gì Việt Nam đang phải đổi mặt hiện nay, và rất nhiều khả năng thất bại của vương triều Hồ sẽ lặp lại với Việt Nam hiện nay nếu không có sự thay đổi trong nội bộ của Việt Nam.
Hồ Quý Ly đã biết rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh từ năm 1400.  Nhà Hồ đã một mặt áp dụng những biện pháp ngoại giao khôn khéo đế trì hoãn chiến tranh, mặt khác tích cực lo chuẩn bị kháng chiến chống xâm lược.
Nhà Minh liên tục gây sức ép và tạo bất ổn với Việt Nam từ cả phía Bắc và phía Nam.  Phía bắc, nhà Minh gây hấn và lấn chiếm đất đai.  Năm 1404, nhà Minh đòi chiếm đất Lộc Châu, Tây Bình, Vĩnh Bình, lấy cớ những đất đó thuộc phủ Tư Minh (Quảng Tây).  Năm 1405, nhà Minh lại sai sứ đòi đất Lộc Châu (Lạng Sơn), và 7 trại Mãnh Man thuộc châu Ninh Viễn một cách gay gắt.  Hồ Quý Ly đã bất đắc dĩ phải nhượng đất để kéo dài thời gian hòa hoãn, lo chuẩn bị kháng chiến, nhưng trước sau vẫn kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và lãnh thổ đất nước.
Ở phía Nam, giữa nhà Hồ và vương triều Chăm Pa có những xung đột phức tạp.  Nhà Minh tìm mọi cách khoét sâu và lợi dụng những xung đột đó để quấy rối hậu phương nước ta.  Năm 1403, nhà Minh phái 9 chiến thuyền vào giúp Chăm-pa chống lại nhà Hồ, và gây ra những vụ xung đột biên giới để phân tán quân đội nhà Hồ.
Việc nhượng bộ đất của Hồ Quý Ly đã gây bất mãn sâu rộng trong quần chúng.  Tuy nhiên, mặt khác cũng tạo được một khoảng thời gian gần 5 năm để vương triều Hồ xây dựng quân đội và trang bị vũ khí với ảo tưởng rằng với quân đội hùng mạnh và vũ khí hiện đại (theo thời đó) thì sẽ chặn được sự xâm lược của quân Minh.
Năm 1401 nhà Hồ ra lệnh kiểm kê dân số và từ đó tiến hành tổng động viên.  Quân đội được chia thành Nam Ban và Bắc Ban với 12 vệ (tương đương sư đoàn), quân Điện Hậu Đông và Tây gồm 8 vệ.  Ngoài quân chủ lực, còn tổ chức thêm hương binh của làng xã, và quân dũng hãn chiêu mộ từ nông dân lưu vong.
Hồ Quý Ly cũng tăng cường chế tạo vũ khí và đạt được những thành tự khoa học quân sự đáng nể.  Bên cạnh các loại vũ khí thông thường như cung tên, giáo mác, kiếm lao, máy bắn đá…..còn có súng thần cơ do Hồ Nguyên Trừng chế tạo có sức công phá và sát thương hơn hẳn các loại súng của quân Minh.
Ngoài ra, nhà Hồ cũng lập những phòng tuyến quân sự kiên cố như phòng tuyến phía bắc chạy dài từ chân núi Tản Viên, Ba Vì, men theo sông Đà, tiếp theo sông Nhị qua Đông Đô, rồi theo sông Hải Triều, sông Hy (sông Luộc) chuyển qua sông Ma Lao (sông Thái Bình) đến Chí Linh, Hải Dương.   Tất cả các phòng tuyến đều được đóng cọc dưới sông, cắm chông dày đặc trên bờ, và phía ngoài có bẫy ngựa và quân lính.
Cho dù có sự chuẩn bị kỹ càng về quân sự, nhà Hồ đã thất bại nặng nề trong cuộc chiến chống quân Minh.  Với một đạo quân gần một triệu (cả chủ lực lẫn tiếp vận), và bất chấp sự kháng cứ mãnh liệt của quân đội vương triều Hồ, quân Minh đã thôn tính được Việt Nam vào năm 1407, sau 6 tháng chiến đấu ác liệt.
Lịch sử phải công minh ghi nhận rằng vương triều Hồ và Hồ Quý Ly đều chủ trương kiên quyết đánh giặc giữ nước, và đã đánh đến cùng.  Tuy nhiên, lịch sử cũng phải thừa nhận rằng nguyên nhân thất bại chủ yếu của triều Hồ là không đoàn kết được toàn dân đánh giặc.
Một điểm đáng lưu ý là những mâu thuẫn nội bộ giữa nhà Trần bị lật đổ và vương triều Hồ (tạm gọi là “ý thức hệ) rất sâu sắc.  Nhà Minh lợi dụng khoét sâu thêm mâu thuẫn này để gây rối trong nội bộ nhà Hồ.
Trước tình hình đó, lẽ ra nhà Hồ phải biết đặt lợi ích của đất nước lên trên hết, giải quyết các mâu thuẫn bên trong theo hướng đáp ứng xu hướng chủ đạo của phát triển chính trị xã hội, để từ đó thắt chặt sư đoàn kết của toàn dân, và huy động sức mạnh của cả nước vào chống giặc cứu nước. Nhưng nhà Hồ đã không làm được như vậy.
Do đó, khi quân Minh tiến sang, triều Hồ không thu phục được lòng dân, không dấy lên được sức mạnh của cả nước đánh giặc, toàn dân đánh giặc, thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân yêu nước chống ngoại xâm.
Từ hạn chế trên đã đưa nhà Hồ đến những sai lầm về quân sự, đó là dựa chủ yếu vào quân mà không dựa vào dân, dựa chủ yếu vào vũ khí và thành quách, mà không dựa vào lòng người và địa hình.  Suy nghĩ về những sai lầm và thất bại của nhà Hồ trong kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi viết:
Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển,
Khóa sông xích sắt cũng vậy thôi.
Lật thuyền mới rõ dân như nước
(Quan Hải)
Những thất bại trong lịch sử chống ngoại xâm Phương Bắc nói trên cho thấy không phải lúc nào Việt Nam cũng chiến thắng.  Những thất bại quân sự dẫn đến mất nước Việt Nam chỉ do một nguyên nhân chính đó là:  Mâu thuẫn, đấu đá tranh giành quyền lực nối bộ, thiếu dân chủ dẫn đến mất lòng dân. Từ chỗ mất lòng dân, những triều đại thất bại trước đây buộc phải dựa vào vũ khí (Nỏ Thần, Đại Thần Cơ) và quân chủ lực.
Trong chiến tranh với Phương Bắc, nếu Việt Nam chỉ dựa vào quân đội và vũ khí thì thất bại là nắm chắc trong tay vì Việt Nam ở bất cứ thời đại nào cũng không thể đủ lính và đủ vũ khí để áp đảo Trung Quốc.  Những gì đang diễn ra hiện nay cho thấy Việt Nam với Quân đội Nhân dân Việt nam, đã và đang có những nét tương đồng đáng sợ với đội quân chủ lực của  Hồ Quý Ly.
Thứ nhất, Việt Nam cho dù đã và rất kiên quyết, nhưng cũng đã và sẽ tiếp tục phải nhượng bộ với Trung Quốc với mục đích là kéo dài thêm được thời gian hòa bình càng lâu càng tốt.  Đây là điều nhà Hồ đã làm, thậm chí phải nhượng cả một số đất của Việt Nam để kéo dài thời gian hòa hoãn cho việc xây dựng quân đội.
Thứ hai, Việt Nam đang dốc tiền đầu tư vào xây dựng quốc phòng như mua tầu ngầm, tầu chiến, máy bay chiến đấu, v.v….đúng như những  biện pháp hiện đại hóa quân sự mà nhà Hồ đã thực hiện vào năm 1401-1405.  Cái hơn của quân đội Hồ Quý Ly so với Quân đội Nhân dân Việt nam hiện nay là nhà Hồ đã chế tạo ra đại thần công có uy lực công phá đáng sợ hơn cả thần công của nhà Minh.
Việt Nam hiện nay không có vũ khí nào có uy thế vượt trội so với Trung Quốc. Cái Việt Nam rất cần làm và phải làm ngay hôm nay là xây dựng “lòng dân” vững mạnh, bên cạnh xây dựng quốc phòng.  Trung Quốc không sợ một Việt Nam mạnh về quốc phòng, mà Trung Quốc chỉ sợ một Việt Nam đoàn kết, dân chủ, toàn dân một lòng.
Thứ ba, nội bộ nhà Hồ lủng củng, chia rẽ và đây là điểm nhà Minh đã lợi dụng để làm yếu nhà Hồ.  Nội bộ của Việt Nam hiện nay cũng đang bị chia rẽ sâu sắc và Trung Quốc hiện nay cũng đã và đang triệt để khoét sâu mâu thuẫn nội bộ này của Việt Nam để làm suy yếu Việt Nam.
Một điều phải khăng định rằng Quân đội Nhân dân Việt nam sẽ chiến đấu mãnh liệt đến cùng để chống ngoại xâm Trung Quốc, cũng giống như đội quân Hồ Quý Ly đã làm.
Nhưng liệu Quân đội Nhân dân Việt nam có thể chiến thắng sự xâm lược của Trung Quốc hay không, hay lại lặp lại thất bại mất giang sơn đau đớn của đội quân Hồ Quý Ly vào năm 1407.
Điều này hoàn toàn phụ thuộc Việt Nam liệu có đủ can đảm để thực hiện những cải cách dân chủ ngay lập tức hay không. Chỉ có một Việt Nam dân chủ thật sự mà trong đó người dân có quyền làm chủ thật sự mới có thể chống lại được bành trướng Trung Quốc.  Tiến trình cải tổ dân chủ đó phải được bắt đầu ngay lập tức nếu không muốn mọi việc trở nên quá muộn.

Vì sao VN thất bại trong nỗ lực bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Tây Âu 
Trong lịch sử cận đại khi thế giới chia làm đa cực, một nguyên tắc có tính quy luật với các nước nhỏ để tránh bị lôi vào vòng cuốn gây ảnh hưởng của các nước lớn là tuyên bố chính sách phát triển trung lập.  Tuy nhiên, trên thế giới, rất ít nước nhỏ thực hiện được thành công chính sách phát triển trung lập, ngoại trừ Thụy Sĩ ở Châu Âu, Thái Lan ở Đông Nam Á, hay Nepal và Bhutan ỏ Nam Á  do địa hình quá hiểm trở khiến hai nước này không bị đô hộ.
Việt Nam nằm trong nhóm những nước nhỏ đã liên tục thất bại trong việc theo đuối chính sách ngoại giao trung lập, độc lập, và không bị phụ thuộc vào các nước lớn.
Phần này tập trung phân tích trong giai đoạn 1975- 1979, vì đây là giai đoạn lịch sử có những nét tương đồng đáng kinh ngạc với thời điểm hiện nay về bối cảnh lịch sử, về chính sách đối ngoại của Việt Nam, và về các quyết sách của Trung Quốc và Mỹ với Việt Nam.
Ngay sau ngày 30/4/1975, và thậm chí trước đó một năm vào năm 1974, Việt Nam đã có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Mỹ và phương Tây để làm đối trọng với Trung Quốc.  Trong năm 1975 đã có những biểu hiệu Trung Quốc và Pol Pot liên kết với nhau để chống Việt Nam.
Ngày 4/5/1975, chỉ bốn ngày sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam, Pol Pot tấn công Việt Nam.  Ba tháng sau, vào ngày 18/8/1975, Trung Quốc tuyên bố viện trợ toàn diện cho Pol Pot.  Để tranh thủ Trung Quốc, TBT Lê Duẩn đã có chuyến viếng thăm chính thức Trung Quốc ngày 25/9/1975. Nhưng chuyến thăm chính thức không đạt kết quả gì và Trung Quốc không có cam kết viện trợ thêm cho Việt nam.
Cùng thời điểm, Liên Xô tăng cường lôi kéo Việt Nam vào trong khối Đông Âu để chống Trung Quốc. Ngày 30/10/1975, Liên Xô tuyên bố sẽ viện trợ kinh tế cho Việt Nam trị giá gần 2 tỉ đô la, một con số khổng lồ vào thời điểm đó, với hy vọng Việt Nam sẽ bỏ Trung Quốc và theo Liên Xô.  Liên Xô cũng ra sức thuyết phục Việt Nam tham gia khối COMECOM, khối hợp tác kinh tế XHCN.
Tuy nhiên, bất chấp những ve vãn của Liên Xô để lôi kéo Việt Nam chống lại Trung Quốc, Việt Nam chủ trương bình thường hóa quan hệ với Mỹ và phương Tây, hơn là tăng cường quan hệ với Trung Quốc hoặc Liên Xô.  Việt Nam muốn theo đuổi một chính sách cân bằng và độc lập trong đối ngoại.
Vì vậy, trong năm 1976, cho dù Trung Quốc và Liên Xô liên tục đòi Việt Nam cho mở Tổng Lãnh Sự Quán ở TP HCM, Việt Nam không để hai nước này mở Tổng Lãnh Sự Quán ở TP HCM.  Nhưng thay vào đó, đã để Pháp, Ý, Đức và các nước phương Tây khác mở lãnh sự quán.  Thậm chí hãng thông tấn xã Sự Thật của Liên Xô cũng không được mở văn phòng đại diện ở TP HCM, trong khi các hãng thông tấn của Mỹ và Phương Tây được mở lại văn phòng báo chí thường trú.
Trong lúc Việt Nam treo cờ ở toàn bộ các ĐSQ nước ngoài đang bị bỏ hoang ở TP HCM sau ngày 30/4/75,  CP Việt Nam không treo cờ Việt Nam ở Tòa Đại Sứ Mỹ (cũng đang bị bỏ trống) với hàm ý để ngỏ chờ cơ hội mở cửa và bình thường hóa quan hệ.
Vì thế, vào năm 1976, cả  Liên Xô và Trung Quốc đã bày to thất vọng với Việt Nam và cả hai công khai chỉ trích Việt Nam là một đất nước “vô ơn”.
Về kinh tế, Việt Nam cũng từ chối lời mời tham gia COMECOM của Liên Xô.  Thay vào đó, IMF và Ngân Hàng Thế giới đã đến Việt Nam tháng 12/1976 và bắt đầu thiết kế khoản vay 60 triệu đô la đầu tiên cho Việt Nam.
Năm 1977 khi Liên Xô ngỏ ý định không hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy thủy điện sông Đã, Việt Nam đã liên hệ với Ngân Hàng Phát Triển Châu Á (ADB) để tìm hiểu khoản vay xây dựng nhà máy thủy điện Sông Đà.
Trong giai đoạn 1976 và 1977, Trung Quốc và Pol Pot tăng cường hợp tác quân sự và kinh tế. Được Trung Quốc bật đèn xanh,  Pol Pot tiến hành các hoạt động tấn công hủy diệt tàn bạo ở các tỉnh biên giới phía Nam của Việt Nam.
Đứng trước một nguy cơ một cuộc chiến tranh tổng lực với Trung Quốc ở phía bắc và một cuộc chiến tranh ở biên giới phía nam với Pol Pot, Việt Nam đã buộc phải vượt qua rào cản ý thức hệ để thúc đẩy hết sức việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và các nước Tây Âu bằng mọi giá với mục đích tạo đối trọng với Trung Quốc.
Nhận lời mời của Việt Nam, đặc phái viên của Tổng Thống Carter,  Đại sứ Leonard Woodcock đã tiến hành một chuyển viếng thăm bí mật đến Hà Nội ngày 16/3/1977 để bàn về việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao.
Ngay sau đó,  TTg Phạm Văn Đồng đã tiến hành công du một loạt các nước Tây Âu vào ngày 25/4/1977.
Để đáp lại, dưới sự chỉ đạo của Trung Quốc, Pol Pot đã tiến hành một cuộc tiến công toàn diện vào các tỉnh biên giới phía Nam của Việt Nam ngày 30/4/1975 như một tín hiệu cảnh báo những nỗ lực bình thường hóa quan hệ với phương Tây và Mỹ của Việt Nam
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn quyết tâm đẩy mạnh bình thường hóa quan hệ với Mỹ và ngày 3/5/1977, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành đàm phán bình thường hóa quan hệ ở Pháp.
Sau đó, trong suốt nửa cuối năm 1977 cho đến ngày 11/10/1978 là cuộc chạy đua giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Một mặt, Trung Quốc liên tục kích động Pol Pot tấn công Việt Nam để buộc Việt Nam phải tự vệ và từ đó cáo buộc Việt Nam gây hấn để tạo cớ gây sức ép với  Tây Âu không bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Mặt khác, Trung Quốc tiến hành một chiến dịch ngoại giao để gây sức ép với Mỹ và buộc Mỹ phải cân nhắc lựa chọn giữa Trung Quốc hay Việt Nam trong chiến lược ngoại giao và quân sự của Mỹ.
Ngày 25/12/1977, Việt Nam phản công tự vệ và chiếm một số tỉnh miền tây của Pol Pol.  Sau đó, trong miền nam, Việt Nam tiến hành chiến dịch “đánh tư sản”, thực ra là nhắm vào người Hoa vì phần lớn tư sản và nhà giàu Sài Gòn là người Hoa.
Hậu quả của việc đánh tư sản đã kích động  làn sóng di tản của người Hoa vào tháng 3/1978 cả trên bộ, trên biển và lan rộng khắp Việt Nam vào năm 1978-1980.   Những phản ứng này của Việt Nam đã mắc đúng vào bẫy của Trung Quốc.
Trung Quốc cáo buộc Việt Nam đã vi phạm luật quốc tế bằng xử dụng vũ lực đánh lại một nước nhỏ là Cambodia, và đã vi phạm nhân quyền trong việc đẩy đuổi người Hoa Kiều.
Do vậy, bất chấp sự nhượng bộ của Việt Nam bỏ tất cả các yêu cầu về bồi thường chiến tranh trong buổi đàm phán với Mỹ ngày 27/9/1978 ở New York, dưới sức ép của dư luận trong nước, chính quyền Carter đã buộc phải đưa ra tuyên bố vào ngày 11/10/1978 đình chỉ toàn bộ việc đàm phán bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Quyết định này của Mỹ đã đẩy Việt Nam vào thế buộc phải dựa vào Liên Xô như là một đối trọng với Trung Quốc.  Sau nhiều lần trì hoãn ký hiệp định hợp tác hữu nghị toàn diện với Liên Xô, ngay sau tuyên bố của Mỹ không bình thường hóa quan hệ, Việt Nam lập tức cử một phái đoàn cao cấp sang LX vào ngày 3/11/1978 để  ký một Hiệp đinh hợp tác toàn diện trong 25 năm.
Tóm lại, Trung Quốc đã đạt được ba thắng lợi lớn sau năm 1975.
Một là cô lập và ngăn chặn quá trình bình thường hóa quan hệ của Việt Nam với Mỹ.  Đây là một đòn giáng rất nặng đến Việt Nam và đã đẩy Việt Nam phải từ bỏ chính sách ngoại giao trung lập sau năm 1975.
Hai là, Trung Quốc đã cài Việt Nam vào bẫy bằng cách xử dụng Pol Pot để buộc Việt Nam phải tự vệ bằng vũ lực, và tạo ra làn xóng di cư của Hoa Kiều để bôi xấu hình ảnh của Việt Nam, từ đó dọn đường dư luận thế giới ủng hộ Trung Quốc – hoặc làm ngơ với Trung Quốc –  trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 để triệt phá toàn bộ cơ sở hạ tầng của các tỉnh biên giới Việt Nam.
Ba là Trung Quốc đã thành công làm kiệt quệ nền kinh tế Việt Nam.  Trong khi Việt Nam lao đao vì cấm vận kinh tế, Trung Quốc đã nhân cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ để tạo ra một thị trường xuất khẩu rộng lớn cho phát triển kinh tế trong ba thập niên 70,80, và 90.  Chỉ trong vòng ba thập niên, nền kinh tế Trung Quốc nhờ tăng cường xuất khẩu vào Mỹ và Tây Âu đã bứt phá mạnh mẽ, trong khi nền kinh tế Việt Nam liên tục suy thoái trong ba thập kỷ 70, 80 và đầu những năm 90 do cấm vận kéo dài.

Những bài học rút ra cho VN hôm nay 

Tấn công chính trị để phòng thủ quân sự.   Một trong các chiến lược quân sự sáng tạo  của chiến tranh nhân dân của Việt Nam là chiến lược tấn công để phòng thủ của Lý Thường Kiệt.  Việt Nam không thụ động đợi quân địch tiến đánh, mà chủ động đánh thẳng vào hậu phương địch.  Vào thời điểm hiện nay, Việt Nam không thể áp dụng chiến lược quân sự này trong chiến tranh hiện đại.
Nhưng Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động tấn công Trung Quốc với biện pháp chính trị bằng cách thực hiện cải tổ chính trị, hướng tới dân chủ ngay tại Việt Nam.  Đây sẽ là đòn giáng nặng nhất vào hậu phương chính trị và quân sự của Trung Quốc.  Nó sẽ tiếp nguồn cho phong trào đòi dân chủ hiện đang bị đàn áp ở Trung Quốc, và buộc Trung Quốc phải quay ra đối đầu với nội bộ, không thể quấy nhiễu bên ngoài.
Hiện nay, ngoại trừ Bắc Triều Tiên là một trường hợp ngoại lệ, chỉ có ba nước theo hệ thống chính trị đóng với quyền lực tập trung vào một đảng, đó là Trung Quốc, Việt Nam và Miến Điện.
Miến Điện hiện đã thực sự cải tổ chính trị và đang hướng tới dân chủ.  Như vậy, chỉ còn Trung Quốc và Việt Nam.  Trung Quốc luôn tuyên truyền để trấn an các phong trào đòi dân chủ trong nước rằng Trung Quốc có thể chế chính trị ưu việt hơn của Việt Nam vì Trung Quốc hiện có 9 đảng đối lập (cho dù là không có quyền lực).
Do vậy, nếu Việt Nam cải cách dân chủ, Trung Quốc sẽ bị sức ép nội bộ rất nặng cho việc cải tổ, và sẽ làm phân tán sự hung hăng gây hấn bên ngoài.

Nếu phải lựa chọn, các nước sẽ chọn Trung Quốc mà không chọn Việt Nam đâu! 

Về kinh tế, nếu cùng một chủng hàng, cùng chất lượng, mẫu mã giống nhau, và giá cả không chênh lệch nhiều, ai cũng sẽ chọn hàng có khối lượng hoặc số lượng lớn.
Thất bại về bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1978 cho thấy khi phải đặt lên bàn cân giữa Trung Quốc cộng sản và Việt Nam cộng sản, Mỹ đã chọn Trung Quốc.
Thế nhưng, các nước dân chủ tiên tiến buộc phải cân nhắc khi phải lựa chọn giữa một Trung Quốc cộng sản với một Việt Nam dân chủ.
Đây là một bài toán hoàn toàn khác vì một Việt Nam dân chủ có tầm quan trọng trong toàn bộ chiến lược phát triển dân chủ ở khu vực Châu Á.  Trong khi một Việt Nam cộng sản với một ít tiềm năng về kinh tế thì không thể so bì với những cơ hội kinh tế của một Trung Quốc cộng sản, và do vậy họ sẽ sẵn sàng đánh đổi Trung Quốc cộng sản với Việt Nam cộng sản.
Hiện nay, sự lựa chọn này đang diễn ra rất gay gắt trong nội bộ của Mỹ.  Vấn đề Ukraine và hạn chế ảnh hưởng của Nga hiện nay là một trong vấn đề nóng nhất trong c/s đối ngoại của Mỹ.
Trung Quốc nắm được điều này nên đã chơi con bài đúng như năm 1978 là gây sức ép với Mỹ phải lựa chọn giữa Trung Quốc hay Việt Nam.
Nếu Mỹ lựa chọn Trung Quốc, Trung Quốc sẽ hỗ trợ Mỹ trong việc làm trung gian giữa Mỹ và Nga.  Nếu Mỹ lựa chọn Việt Nam, Trung Quốc sẽ đẩy quan hệ chiến lược với Nga làm đối trọng với Mỹ.
Do vậy, đừng quá ảo tưởng về những tuyên bố gần đây của Mỹ phản đối Trung Quốc về biển Đông.  Việt Nam chỉ có thể vượt trội trong bàn cân chiến lược nếu Việt Nam là một nước dân chủ tiến bộ.
Vì điều này sẽ tạo một làn sóng ủng hộ mạnh mẽ trong nội bộ Quốc hội Mỹ và bất cứ tính toán thực dụng nào thiên về phía Trung Quốc cũng sẽ vấp phải phản ứng của Quốc Hội Mỹ ủng hộ cho một Việt Nam dân chủ.
Không thể áp đảo và thắng Trung Quốc bằng số lượng quân đội và vũ khí.  Đây là bài học muôn thủa, nhưng vẫn bị quên lãng.  Hiện đại quốc phòng là cần thiết.  Nhưng phải xác định không thể thắng Trung Quốc bằng số lượng quân hay vũ khí.  Thất bại của nhà Hồ là điển hình.
Thậm chí ngay cả An Dương Vương vì quá coi trọng vào Nỏ Thần, và dựa vào thành Cổ Loa, mà không thật sự dựa vào dân, đã để thua Triệu Đà và đẩy Việt Nam vào một nghìn năm Bắc thuộc.
Chiến tranh nhân dân, toàn bộ Việt Nam là chiến trường, phi thành quách, toàn bộ người dân là quân, chỗ nào cũng đánh khiến cho địch “không thể cởi giáp và bỏ cung kiếm trong nhiều năm, dẫn đến kiệt quệ và bị tiêu diệt….” (Nguyễn Trãi). Nhưng để làm được như vậy thì phải thực hiện dân chủ, phải thay đổi, nếu không muốn Việt Nam lại rơi vào một thời kỳ Bắc thuộc thế kỷ 21.
Không bị sa bẫy làm “chảy máu kinh tế”.  Trung Quốc đã áp dụng rất thành công chiến lược làm kiệt quệ Việt Nam vào năm 1978.  Với thành công trong việc ép Mỹ và Tây Âu cấm vận Việt Nam vì lý do nhân quyền, và xử dụng vũ lực, Việt Nam đã bị rơi vào cô lập kinh tế mà hậu quả cho đến nay vẫn còn nặng nề.
Những vụ manh động vừa qua đã làm tổn hại nghiêm trọng đến đầu tư lâu dài của nước ngoài ở Việt Nam và những tác động này là hết sức nghiêm trọng về kinh tế.  Từ năm 2012 đến nay, nhà đầu tư dài hạn đang có xu hướng chuyển sang xuất từ Trung Quốc đến các nước ASEAN do nhân công ở Trung Quốc đã quá cao.
Nhưng những vụ biểu tình bạo lực tuần trước đã là tiếng chuông báo động cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi tính đến khả năng đầu tư dài hạn ở Việt Nam.  Họ đang tính chuyển dần sang Nam Á hơn là Việt Nam, nhất là sau bầu cử thắng lợi của Ấn độ ngày 19/5/2014.
Trung Quốc sẽ liên tục gây sức ép căng thẳng để kích động và tạo tâm lý chiến tranh để từ đó uy hiếp các nhà đầu tư rút dần ra khỏi Việt Nam.  Đây là một độc chiêu rất nguy hiểm của Trung Quốc.  Hiện nay, Trung Quốc cũng đã loan tin về sự bất ổn về đầu tư dài hạn ở Việt Nam với các nhà đầu tư Đài Loan, và các nhà đầu tư nước ngoài khác.
Không thể ảo tưởng về ngoại giao “khôn khéo và linh hoạt”.  Nhà Hồ đã áp dụng các biện pháp ngoại giao uyển chuyển và linh hoạt trong suốt 5 năm, 1401 – 1406, thậm chí buộc phải nhượng lại một số đất đai phía bắc cho nhà Minh nhưng cũng không tránh được một cuộc chiến tranh với Trung Quốc.
Xung đột vũ trang với Trung Quốc trước sau cũng xảy ra, chỉ là vấn đề thời gian, phạm vi, và mức độ.  Việc xử dụng vũ lực đơn phương và không bị quốc tế trừng phạt – hoặc quốc tế không thể trừng phạt – diễn ra như cơm bữa trong thế kỷ 20 và 21.
Mỹ đánh Iraq không cần nghị quyết LHQ (Nghị quyết số 1441 của LHQ không đồng thuận cho Mỹ đánh Iraq đơn phương).
Việt Nam đánh Cambodia năm 1979 cũng không được LHQ ủng hộ (mà lẽ ra LHQ phải ủng hộ vì Pol Pot thực sự là chế độ diệt chủng).
Tuy nhiên, thực tế trên cho thấy Trung Quốc có thể bất cứ lúc nào đánh Việt Nam, bất chấp dư luận quốc tế phản đối.
Cũng không thể có nước nào có thể áp dụng trừng phạt kinh tế với Trung Quốc vì sự ràng buộc thương mại và đầu tư với Trung Quốc là quá lớn với tất cả các nước có khả năng áp dụng trừng phạt kinh tế.
Trung Quốc đã có thể chiếm các đảo của Việt Nam ngay trong ngày mai, mà Việt Nam khó có thể đánh chiếm lại.
Điều này cho thấy sự khẩn cấp của việc cải tổ chính trị ở Việt Nam càng sớm càng tốt để củng cố lòng tin của dân, củng cố vị thế dân chủ của Việt Nam trên thế giới, từ đó Việt Nam sẽ nằm trong liên minh của các nước dân chủ để đối trọng với Trung Quốc.  Nếu không thực hiện việc cải tổ chính trị ngay và quyết liệt, thì hậu quả với Dân Tộc và Tổ Quốc là khôn lường.

TL tham khảo
  • Brezinski, Zbiniew, 1983. Power and Principle:  Memoirs of the National Security Advisor, New York, 1977
  • Chanda, Nayan, 1986 “Brother Enemy:  The War After the War”
  • Heder, Stephen, 1980. From Pol Pot to Pean Sovan.  Chulalongkorn University
  • Phan Huy Lê, 2012 “Lịch Sử và Văn Hóa Việt Nam “Tiếp Cận Bộ Phận”.  Xuất Bản lần thứ hai. Nhà Xuất Bản Thế Giới
  • Ngô Sỹ Liên, 2011 “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” Tập I và Tập II.  In Lần Hai, có sửa chữa.   Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
  • Vance, Cyrus, 1983. Hard Choices:  Critical Years in American Foreign Policy.  New York: Simon and Schuster
  • World Bank, 1977.  Socialist Republic of Vietnam:  An Introductory Economic Report 
  • Bách Việt.

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

Việt Nam có thể làm gì và nên làm gì với Trung Quốc?


Một tranh biếm họa cũ nay vẫn còn nguyên giá trị
Đây là câu hỏi thường dẫn đến nhiều câu trả lời khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, không chỉ trong nội bộ người Việt Nam mà trên thế giới. Bởi vì quan hệ Việt-Trung giống như một chiếc hàn thử biểu loạn nhịp trước nhiệt độ nóng lạnh thất thường trong quan hệ giữa hai quốc gia "vừa là đồng chí vừa là anh em", có lúc tưởng như sóng đã yên biển đã lặng, bỗng chốc ào lên những đợt sóng cồn. Với tình trạng quan hệ bấp bênh như thế, phần bị động thiệt thòi luôn thuộc về Việt Nam, và tình huống luôn đặt Việt Nam vào thế phải lựa chọn giữa chiến hay hòa, giữa đối đầu hay cam chịu..., đằng nào cũng khó cả. 

Sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan khổng lồ Haiyang 981(dưới đây gọi tắt là giàn khoan 981) được gọi là "lãnh thổ di động" tại một tọa độ sâu trong lãnh hải Việt Nam hiện nay là một trong những đợt sóng cồn như thế và nó đang khuấy lên những tình cảm lẫn lộn trong nội bộ người Việt với bao nỗi băn khoăn trăn trở. Những ngày qua dồn dập diễn ra nhiều vụ việc cùng với hàng triệu ý kiến từ chính giới, các học giả, nhà nghiên cứu đến người dân. Bên cạnh các phát biểu, bài viết được đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng còn vô số ý kiến khác trên mạng internet với sức lan tỏa không kém gì nhau. Có lẽ chưa bao giờ sự khác biệt chính kiến được thể hiện nhanh, đầy đủ và rộng khắp như bây giờ.
  
Lòng yêu nước không thuần nhất  

Một lần nữa từ "yêu nước" lại vang lên với tần suất cao trong ngôn từ của người Việt, từ nhà ra ngõ, trong nước và ngoài nước, từ thành thị đến nông thôn, từ miền biển lên miền núi, ai cũng muốn chứng tỏ mình là người yêu nước và yêu nước là lẽ sống. 

Đó là dấu hiệu rất đáng mừng trong bối cảnh đất nước đang cơn khủng hoảng mất lòng tin do tệ nạn tham nhũng và sự yếu kém của bộ máy công quyền đến nỗi nhiều người cho rằng nếu có giặc ngoại xâm sẽ không còn ai để chống giặc... Thật ra đâu phải thế (!?)

Tuy nhiên, nhìn cận cảnh ta thấy lòng yêu nước giờ đây có khác so với các thời kỳ trước. Đó là tính đa dạng trong quan niệm và cách thức thể hiện mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự thay đổi trong cơ cấu chính trị-xã hội và sự hình thành các nhóm lợi ích mới. Lẽ đương nhiên, người giàu yêu nước khác với người nghèo; lòng yêu nước của người có chức quyền chưa chắc trong sáng hơn lòng yêu nước của dân thường và lòng yêu nước của doanh nhân còn phụ thuộc vào mức độ cam kết với đối tác của quốc gia xâm lược (như được thể hiện qua nhiều phi vụ làm ăn gây thiệt hại cho nền kinh tế và an ninh quốc phòng trong thời gian qua); và hình như các thế lực tham nhũng có phần cảm thấy "an toàn" hơn khi đất nước bận đối phó với ngoại xâm. Ngoài ra còn hàng triệu người Việt định cư hoặc làm ăn, học tập ở nhiều nước khác nhau trên thế giới tùy hoàn cảnh mỗi người cách thể hiện lòng yêu nước cũng không giống nhau. 

Nói cách khác, sự khác nhau về lợi ích dù muốn hay không cũng chi phối mức độ của lòng yêu nước. Nếu trước đây mọi người dễ dàng gác sang một bên lợi ích cá nhân để cùng nhau chiến đấu chống giặc Pháp, Mỹ thì giờ đây chắc sẽ có những người không tránh khỏi đắn đo do dự khi chống lại "giặc tàu". 

Ấy là chưa kể có những thành phần luôn chờ cơ hội để thực hiện những mưu đồ riêng của họ như lật đổ chính quyền, tranh giành quyền lực hoặc can thiệp vào nội tình của Việt Nam. Tất cả các thành phần này cũng núp dưới khẩu hiệu yêu nước nhưng tâm địa thì đen tối.  Hiện tượng bạo loạn đập phá hôi của mới xảy ra tại Hà Tĩnh và Bình Dương là một biểu hiện. Tình trạng dân trí khập khiển trong dân chúng cũng là một nguyên nhân khiến họ không nhận rõ ai là bạn/thù và đâu là cách thích hợp để thể hiện lòng yêu nước.  

Lúng túng trong đối sách  

Lời tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Diễn đàn Kinh tế Đông Á (Philipin) mới đây làm nức lòng người dân đất Việt sau một thời gian dài thất vọng. Không chỉ nêu đích danh Trung Quốc xâm lược, Thủ tướng còn chỉ rõ Trung Quốc nói một đàng làm một nẻo và thuyên bố "nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này (tức độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ) để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc". Chỉ cần thế, người Việt dường như đã tìm lại được chính mình với khí thế của thời chống chống Pháp, chống Mỹ. 

Có thể nói, đây là một bước tiến dài trong nhận thức của Lãnh đạo Việt Nam trong một thời gian ngắn, mà chỉ có được do sự hung hãn trắng trợn của Trung Quốc đưa lại. Nhưng đây không phải lần đầu Trung Quốc trở mặt gây hấn xâm lược. Họ đã làm thế với cuộc chiến tranh biên giới 1979, rồi cuộc chiến chớp nhoáng Trường Sa năm 1988 cũng như hàng loạt vụ cướp phá tàu cá, cắt cáp tàu dầu khí của Việt Nam, v.v... 

Nhưng có điều là, sau mỗi sự kiện, Việt Nam tuy đều bị thua thiệt, thậm chí bị mất một phần lãnh thổ hay biển đảo, nhưng rồi vẫn tiếp tục với phương châm mà Bắc Kinh đã đề ra "gác lại tranh chấp...vì vì đại cục". Thực tế đầy mỉa mai này khiến ta không thể không băn khoăn liệu lần này Việt Nam có thể vượt qua chính mình để làm một điều gì đó khác trước (?). Liệu mọi chuyện sẽ đâu lại về đó khi "nó" mời ông nọ bà kia sang thăm và nói lời hạo hạo cùng với những hứa hẹn riêng tư... Có thể lắm chứ khi mà "ý thức hệ" vẫn còn đó với lá bùa 4 tốt và 16 chữ vàng dán trên trán. 
Sự lúng túng được thể hiện trong chủ trương chính sách cũng như trong hành động cụ thể.  Ai cũng biết, cho đến trước vụ giàn khoan 981, chính quyền không cho phép biểu tình chống Trung Quốc dù dưới bất kỳ hình thức, quy mô nào, nhưng sau vụ giàn khoan thì lại cho phép với hàng loạt cuộc mít tinh biểu tình từ đảo Lý Sơn đến Thành phố HCM, Hà Nội và các nơi khác. Tuy nhiên, sau vụ bạo loạn tại khu công nghiệp ở Hà Tĩnh và Bình Dương thì lại cấm tiệt, không phân biệt ai là kẻ xấu, người tốt. Hiện chỉ người Việt ở nước ngoài được biểu tình trong khi người Việt ở trong nước thì không. Đây là một nghịch lý chứa đựng những nguy cơ bất bình trong dân chúng.
   
Trên mặt trận thông tin tuyên truyền (truyền thông)  ta thấy từ "tàu lạ", "nước lạ" được thay bằng từ "Trung Quốc" sau vụ giàn khoan 981. Những thay đổi bất chợt như nói trên không phải chỉ có bây giờ mà đã có nhiều lần trong quá khứ. Tất nhiên chính quyền có đủ lý lẽ để biện minh, nhưng không thể che dấu được thực chất lúng túng khó xử bắt nguồn từ sai lầm trong chủ trương đối sách với Trung Quốc. 

Có vô lý không khi Việt Nam lúc nào cũng sẵn sàng phê phán, công kích Mỹ và Phương Tây về mọi điều sai trái, kể cả những điều không trực tiếp có hại cho Việt Nam, nhưng với Trung Quốc thì lại kìm nén, im lặng chịu phần thua thiệt? Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân khiến đất nước đã bỏ lỡ nhiều cơ hội để "làm bạn với tất cả", và rốt cuộc không thể thoát khỏi vòng cương tỏa của ông bạn lớn láng giềng phương Bắc?

Kịch bản nào cho vụ giàn khoan 981?

Xin nhắc lại, trong vòng 1/2 thế kỷ qua cứ mỗi lần gây hấn, Trung Quốc đều gặm nhấm một phần lãnh thổ hoặc biển đảo của Việt Nam. Bằng cuộc hải chiến với Việt Nam Cộng hòa năm 1974 Trung Quốc đã nuốt trọn toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Bằng cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 mà Đặng Tiểu Bình nói để "dạy Việt Nam bài học", nhưng thực chất là để tạo tiền đề phục vụ việc đàm phán biên giới một cách có lợi về sau, và kết quả đã chiếm được một diện tích rải rác dọc biên giới Việt-Trung tổng cộng bằng tỉnh Thái Bình (theo đánh giá của ông Nguyễn Trọng Vĩnh-nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc). Bằng cuộc hải chiến chớp nhoáng tại quần đảo Trường Sa năm 1988 Trung Quốc đã chiếm 6 đảo đá ngầm và hình thành thế "cài răng lược" tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam nơi mà trước đó Trung Quốc không hề có chỗ đứng chân nào.  Không còn nghi ngờ gì, bằng việc hạ đặt giàn khoan 981 mà họ gọi là "lãnh thổ di động" lần này Trung Quốc nhằm chiếm một vùng biển rộng lớn sâu bên trong lãnh hải của Việt Nam. Chắc chắn Trung Quốc sẽ không dừng lại ở đây nếu họ không bị buộc phải dừng lại. 

Diễn biến tình hình  hơn 20 ngày qua ngày càng căng thẳng phức tạp không loại trừ bùng nổ chiến tranh với mọi mức độ và quy mô, đồng thời cũng có khả năng kết thúc bằng các biện pháp phi chiến tranh. Những khả năng đó có thể được liệt kê theo thứ tự khả thi như dưới đây:

a) Trước sức ép của dư luận quốc tế, Trung Quốc đơn phương tuyên bố "hoàn thành kế hoạch..." và rút giàn khoan đúng ngày 15/8 đồng thời rút lực lượng khỏi khu vực;

b) Do sức ép dư luận (có thể mạnh hơn khi Việt Nam phát đơn kiện) Trung Quốc buộc phải rút giàn khoan và lực lượng trước thời hạn 15/8; 

c) Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì giàn khoan và di chuyển để khoan thêm những mũi khác quanh đảo Tri Tôn, tất nhiên vẫn duy trì lực lượng tàu bảo vệ;

d) Trung Quốc sẽ không rút giàn khoan nếu tìm thấy dầu hoặc khí đốt ở mức độ có thể khai thác thương mại;

e) Trong quá trình đấu tranh giằng co, do một sai lầm nào đó của lực lượng tại chỗ từ một trong hai phía, dẫn đến xung đột vũ trang  làm chìm tàu, chết người...; 

f) Trung Quốc cố tình khai hỏa dẫn đến xung đột vũ trang tại chỗ với sự tăng cường lực lượng từ hai phía và chiến sự lan rộng ra dọc ven biển Việt Nam và quần đảo Trường Sa.  

Tất cả các khả năng đều có thể xẩy ra, nhưng cuối cùng cũng phải chấm dứt. Chấm dứt như thế nào còn phụ thuộc vai trò của các tổ chức quốc tế và các nước lớn khác. Nhưng vai trò quyết định là Việt Nam, nếu Việt Nam biết rằng muốn thế giới cứu mình, trước hết Việt Nam phải tự cứu. Đó là quy luật của cuộc sống.    

Việt Nam nên làm gì?

Ai cũng biết, nếu nổ ra chiến tranh, Việt Nam khó thắng Trung Quốc trong từng trận, nhưng nhất định sẽ thắng trong một cuộc chiến tranh kéo dài. Hơn nữa, trong bối cảnh thời đại ngày nay mọi thắng lợi bằng biện pháp chiến tranh sẽ không có giá trị cho mục tiêu chiếm đóng lãnh thổ về lâu dài. Đây là điều Trung Quốc cũng tự biết. 

Cuộc "xung đột giàn khoan" này sớm muộn rồi cũng đến hồi kết. Tuy nhiên, dù kết cục thế nào, Việt Nam cần nhận thức rõ, đây không phải là chuyện tranh giành lợi ích dầu khí hay ngư trường mà là chủ quyền lãnh thổ. Mục đích tối thượng của Việt Nam là phải tống khứ không chỉ giàn khoan 981 mà cả lực lượng tàu thuyền của Trung Quốc ra khỏi khu vực mà họ đang định lấn chiếm, chí ít phải trở lại nguyên trạng trước ngày 2/5/2014. Chừng nào chưa hoàn thành mục tiêu này chừng đó Việt Nam còn phải tiếp tục đeo bám đấu tranh đến cùng.

Như trên đã nói, Việt Nam không chủ trương dùng chiến tranh để giải quyết tranh chấp. Lợi thế của Việt Nam  nằm ở tính chính nghĩa và pháp lý. Nếu biết phát huy tốt mặt lợi thế này Việt Nam nhất định sẽ thành công trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đồng thời tránh được chiến tranh. 

Nói cách khác Việt Nam không thể đùng biện pháp chiến tranh để đánh đuổi Trung Quốc mà chỉ có thể dùng biện pháp chính trị ngoại giao và pháp lý. Biện pháp chính trị ngoại giao thì lâu nay đã dùng. Biện pháp đấu tranh pháp lý thì chưa. Vậy đây là thời điểm thích hợp để sử dụng pháp lý một cách có hiệu quả.

Điều quan trọng hơn là, đã đến lúc Việt Nam cần xác định lại toàn bộ đường lối chính sách trong quan hệ với Trung Quốc- đó là không bao giờ chủ trương đối đầu nhưng cũng không thân thiết "anh em chiến lược" - tức là chỉ coi Trung Quốc như một nước đối tác bình thường, tốt với nhau thì chơi, không tốt thì đề phòng hoặc không chơi. Phải dứt khoát đoạn tuyệt với quan niệm "hữu nghị viễn vông" như Thủ tướng đã nói. 

Trung Quốc có thể trả đủa bằng biện pháp kinh tế-thương mại nhưng chỉ có thể gây những khó khăn lúc đầu, vì vai trò đầu tư, thương mại của Trung Quốc tại Việt Nam hiện nay chưa đủ sức gây áp lực đáng kể lên nền kinh tế Việt Nam. Ngược lại Việt Nam sẽ có cơ hội để thực hiện tự lực tự cường thông qua việc đa dạng hóa quan hệ với thế giới. Thực tiễn cho thấy, càng buôn bán, hợp tác kinh tế với Trung Quốc nền kinh tế Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc đồng thời mất cơ hội để tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến của nhân loại. Điều này thể hiện rõ qua những hậu quả nhãn tiền chỉ sau một thời kỳ ngắn "bình thường hóa" quan hệ Việt-Trung.

Thực tiễn cũng cho thấy Trung Quốc chỉ giúp Việt Nam khi nào có lợi cho họ, triệt để sử dụng Việt Nam để chống lại Mỹ, Nga, khi có cơ hội thì thông đồng với Nga, Mỹ để xâm lược Việt Nam. Lịch sử cho thấy người Pháp dù đô hộ Việt Nam 100 năm nhưng không chiếm được tất đất nào của Việt Nam, người Mỹ, người Nga cũng không làm điều đó. Nhưng Trung Quốc thì lúc nào cũng lăm le nhòm ngó xâm lấn đất đai biển đảo của hàng xóm bằng mọi thủ đoạn bẩn thiểu nhất. Đây là đặc điểm phải tính đến trong hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. 

Trong họa có phúc, thiết nghĩ vụ giàn khoan 981 chỉ là một vụ trong hàng trăm vụ gây hấn vì mục đích lãnh thổ của Trung Quốc trong suốt quá trình 75 năm quan hệ Việt-Trung. Hy vọng đây là tiếng chuông cảnh báo cuối cùng để người Việt Nam từ giới lãnh đạo đến người dân bình thường biết làm gì để đoạn tuyệt với kiểu quan hệ bất bình đẳng được tạo dựng bởi "vòng kim cô ý thức hệ" cùng những thứ viễn vông... Có lẽ bài học đơn giản cần rút ra là, là trong quan hệ với  ông bạn láng giềng phương bắc Việt Nam phải duy trì một khoảng cách đủ rộng để tiến lui. Và trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, trí phải khôn nhưng chí phải quyết, lòng phải bền, tuyệt đối tránh cái cảnh sau cơn bỉ cực thì gà con lại sà vào lòng con cáo già.  
              
TL Tham khảo:
-Sự thật về Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua
Nxb Sự Thật, Hà Nội 10/1979.

-Tin TTXVN
-Tin Internet

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Hay quá! TQ đình chỉ đình chỉ các chương trình trao đổi với VN


Theo một số nguồn tin hôm nay, người phát ngôn Bộ NG Trung Quốc vừa ra tuyên bố kể từ  18/5/2014 Trung Quốc đơn phương đình chỉ các chương trình trao đổi với VN (chưa rõ cụ thể chương trình gì). Xem thêm tại đây:http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140518-trung-quoc-dinh-chi-nhieu-chuong-trinh-trao-doi-voi-viet-nam
Nếu tin này là có thật thì chủ blog tôi cảm thấy lo thì ít mừng thì nhiều. Lo vì nó báo hiệu khả năng sắp tới kẻ thù có thể sẽ hung hăng điên cường hơn với ý đồ xâm lược của chúng,  mừng vì đây là cơ hội để Việt Nam rũ bỏ những thứ quan hệ hữu nghị diêm dúa không thực chất và thường là bất lợi cho Việt Nam để cuối cùng thoát khỏi vòng cương tỏa của Trung Quốc. 

Thông thường trong quan hệ quốc tế, các bên bị hại mới là người có tư cách sử dụng các biện pháp cắt hay tẩy chay các mối quan hệ ở các mức độ khác nhau để phản đối kẻ xâm lược. Nhưng lạ thay ,trong trường hợp này Trung Quốc lại làm điều đó. Thì ra mấy ngày trước họ đã bù lu bù loa tố cáo Việt Nam ăn hiếp Trung Quốc trên Biển Đông bằng cách cho tàu bé hơn  đâm vào những tàu chiến to đùng của họ để ngăn cản họ khoan dầu ở một vị trí rất sâu trong lãnh hải của VN (nhưng họ bảo là của TQ).  Đặc biệt họ đã triệt để lợi dụng vụ một số người dân Việt Nam do phẫn uất trước vụ giàn khoan Haiyang lại bị các phần tử xấu xúi dục đã xông vào đập phá hành hung số công nhân người Trung Quốc đang làm việc tại các khu công nghiệp Vũng Áng và Bình Dương để tuyên truyền vu khống Việt Nam. Tất nhiên thủ đoạn nham hiểm này ít nhiều cũng có tác dụng đánh lạc hướng dư luận nhưng chưa đủ để che đậy thực tình của vụ giàn khoan phi pháp Haiyang. Do đó, giờ đây Bắc Kinh lại tung ra một đòn nữa đúng kiểu "vừa ăn cướp vừa la làng" mà bất cứ ai có hiểu biết về Trung Quốc chắc không lạ. 

Động tác mới này của Bắc Kinh là vừa để tung hỏa mù trong dư luận quốc tế vừa để hù dọa Việt Nam nếu yếu bóng vía sẽ lo sợ Trung Quốc sắp đánh Việt Nam một lần nữa. Bằng việc cho sơ tán người về nước và cắt bỏ các quan hệ hợp tác... họ muốn tạo ra tâm lý chuẩn bị chiến tranh để gây sức ép lên các nhóm lợi ích và Chính phủ của Việt Nam. Chiêu này cũng thâm nho ra phết!  

Riêng cá nhân tôi thì xin quả quyết đây là một đòn gió. Nếu Trung Quốc có đánh thì  chỉ đánh trộm hoặc đánh nhanh, chứ thách kẹo cũng không dám phát động chiến tranh tổng lực chống Việt Nam để cuối cùng lại chuốc lấy những Đống Đa, Bạch Đằng như ngàn năm trước.
      
Để khỏi viết lại dài dòng văn tự, xin đưa lại bài viết dưới đây để bạn đọc tham khảo lý do tại sao tôi cho là âm mưu này của Bắc Kinh có lợi cho Việt Nam nhé!

Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2014

Giàn khoan Haiyang HD-981:Thách thức và cơ hội


Giàn khoan HD 981, Trung Quốc, bành trướng, tranh chấp lãnh thổ, biển Đông, năng lượng, đồng minh, Putin, chủ quyền, toàn vẹn quốc gia

Từ 1/2 thế kỷ nay Trung Quốc ráo riết lấn chiếm lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam bằng vũ lực với những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Về phần mình, do tương quan lực lượng chênh lệch Việt Nam chưa thể làm gì để đối phó một cách có hiệu quả. Xâm chiếm biển đảo là mục tiêu "cốt lõi" của nhà cầm quyền Bắc Kinh, theo đó họ đã lần lượt chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 (lúc đo do VNCH quản lý), chiếm một số bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988, và hiện nay đang định mở rộng vùng chiếm đóng phía nam Hoàng Sa sâu trong lãnh hải của Việt Nam. Nhìn toàn cục, đó là những tổn thất nghiêm trọng về chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Tuy nhiên tục ngữ có câu "con giun xéo lắm cũng oằn" và "trong họa có may". Do đó việc Trung Quốc sử dụng giàn khoan khủng HD-981 như một "cột mốc đi động" để lấn chiếm lãnh hải của Việt Nam thực chất là hành động xâm lược, nhất là khi họ đồng thời dùng tàu có vũ trang tấn công gây thiệt hại và thương tích đối với lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền. Hành động này xét một mặt là nguy cơ nhưng xét mặt khác là tạo ra cơ hội để Việt Nam khởi kiện Trung Quốc. Đây là luận điểm mà Việt Nam cần tận dụng khai thác. Lý do có nhiều, nhưng có 3 lý do chính yếu sau đây.

Một là, ai cũng biết Việt Nam yếu hơn Trung Quốc về quân sự. Trong bối cảnh hiện nay Việt Nam có thể đánh trả để tự vệ, nhưng khó có thể lấy lại những đảo đã bị Trung Quốc chiếm đóng. Tuy nhiên, quân sự chỉ mà một vế của cuộc đấu tranh, thậm chí là vế phụ nếu xét vấn đề chiến tranh và hòa bình trong bối cảnh thế giới hiện đại ngày nay. Thế mạnh của Việt Nam là pháp lý và chính nghĩa.

Hai là, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa trên thực tế (de facto occupation) được 40 năm liên tục, mà theo tinh thần luật pháp quốc tế, nếu Việt Nam để lâu hơn (tối thiểu là 50 năm) không thưa kiện cũng không có hành động chiến tranh để giành lại thì coi như thừa nhận sự chiếm đóng của Trung Quốc. 

Ba là, Trung Quốc đã có tính toán rất kỹ lưỡng và thâm hiểm khi lựa chọn địa điểm đặt giàn khoan bên cạnh chu vi quần đảo Hoàng Sa tranh chấp đồng thời lấn sâu vào lãnh hải của Việt Nam nhằm mở rộng diện tích chiếm đóng. Tuy nhiên, âm mưu này vô hình trung cũng tạo ra một lợi thế cho Việt Nam để đưa vấn đề ra kiện tại các cơ chế tòa án quốc tế không chỉ về vụ giàn khoan mà cả vụ tranh chấp Hoàng Sa. Vấn đề là Việt Nam lựa chọn cơ chế nào, tòa án nào cho thích hợp mà thôi. Nếu làm tốt vụ kiện lần này Việt Nam có thể đạt hai mục tiêu: Buộc Trung Quốc rút giàn khoan là điều chắc chắn đạt được; và chính thức nhắc lại đòi hỏi chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng phi pháp.

Theo dõi tình hình thì thấy, dư luận quốc tế đang chuyển biến rất nhanh theo hướng ngày càng thuận lợi đối với Việt Nam (có lẽ chưa từng thấy trước đây kể từ thời chiến tranh chống Mỹ). Trong số các nước ủng hộ Việt Nam đến nay có tất cả các quốc gia quan trong như Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ, EU...; riêng tổ chức ASEAN đã ra tuyên bố tại Hội nghị cấp cao tại Myanma, và đây là tuyên bố đầu tiên đạt được về một vụ việc tranh chấp tại Biển Đông. Bộ Ngoại giao Mỹ coi hành động của Trung Quốc là "gây hấn và không ích lợi gì cho việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực". Thượng Nghị sĩ John McCain đánh giá "Hành động gây hấn này của Trung Quốc làm dấy lên mối quan ngại sâu sắc" và "...chỉ làm leo thang căng thẳng ở biển Đông". Theo ông, " Trung Quốc hiển nhiên phải chịu toàn bộ trách nhiệm cho nỗ lực đơn phương này khi tìm cách thay đổi hiện trạng" và "Các hành động này của Trung Quốc dựa trên những tuyên bố chủ quyền không hề có cơ sở nào trong luật quốc tế. Thực tế, Trung Quốc tiến hành khoan ngay trong vùng Đặc quyền Kinh tế của VN vốn đã được định rõ trong luật quốc tế". 

Cách lập luận trên được đại đa số dư luận quốc tế cùng chia sẻ. Chắc rằng dư luận quốc tế sẽ tiếp tục diễn biến bất lợi cho Trung Quốc như kẻ tham vọng bành trướng bá quyền bất chấp lẽ phải ... Dù cuồng vọng, ngang ngược và ngạo mạng Trung Quốc cũng phải tính đến dư luận quốc tế. Xét trong bối cảnh hiện nay, hành động của Trung Quốc là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Việt Nam và đe dọa hòa bình khu vực và quốc tế, nhưng đồng thời cũng tạo ra một cơ hội mà Việt Nam cần chủ động nắm bắt để hóa giải thách thách thức. 

Tìm kiếm Blog này