Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Lòng tin và hệ lụy của nó

Cảnh cũng lễ hàng ngày tại Đền Bà  Chúa  Kho 
Động lực sống của con người là lòng tin. Nó có thể là niềm tin vào thánh thần hay một lý tưởng chính trị, hoặc tin vào chính bản thân mình, hoặc đôi khi chỉ là sự ngưỡng mộ đối với một thần tượng, v.v... Niềm tin quan trọng hơn nội dung của nó, hay nói cách khác, sự đúng sai của điều mà người ta tin vào đôi khi không quan trọng bằng những gì dẫn dắt người ta đến với nó.  Niềm tin có thể rất cụ thể, cũng có thể rất mơ hồ trừu tượng, nhưng dù ở dạng nào, nó đều có vai trò như một cái phao cứu sinh đối với con người bé nhỏ bất lực trong vũ trụ bao la vô định. Lòng tin cũng là lẽ sống nên thường khi người ta không có hoặc bị mất niềm tin, tâm hồn sẽ trở nên trống rỗng, sức lực suy sụp và cuộc đời vô nghĩa.

Đó chính là lý do tại sao các loại tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau hình thành và phát triển trên thế giới từ thời thượng cổ đến nay. Và đó cũng là nguyên nhân tại sao các tôn giáo, tín ngưỡng dù khác nhau, thậm chí trái ngược, xung khắc lẫn nhau, nhưng vẫn cùng tồn tại trong xã hội loài người. Và dù muốn hay không, tín ngưỡng là một nhân tố sống còn đối với con người, đồng thời cũng rất dễ bị lợi dụng bởi những thế lực hắc ám chuyên nghề buôn thần bán thánh.  

Lòng tin không chỉ quan trọng đối với cá nhân mà còn quan trọng đối với cộng đồng và quốc gia. Mỗi quốc gia cần có sự cố kết trên cơ sở lòng tin do chính công dân của quốc gia đó lựa chọn một cách không gượng ép cũng không mù quáng; nếu vì một lý do nào đó dẫn đến sự lựa chọn mù quáng thì đó là sự mê tín tai hại. Có thể nói, lòng tin đóng vai trò quyết định đối với sự sống còn của một quốc gia. Nơi nào và khi nào không có lòng tin hoặc lòng tin lung lay suy yếu, nơi đó sẽ trở nên xung yếu và dễ rơi vào khủng hoảng, thậm chí tan rã. 
  
Việt Nam là một trong những quốc gia dân tộc có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng lòng tin nhờ có tư tưởng phật giáo cùng với đạo lý hòa hiếu và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã ăn sâu bám rễ hàng ngàn năm. Tuy vậy, đất nước này cũng không tránh khỏi những chu kỳ thăng trầm khi lòng tin của dân chúng bị đánh mất và vận nước lâm nguy dẫn đến muôn nỗi bi ai như đã thấy trong lịch sử dân tộc. Giờ đây phải chăng một chu kỳ như vậy sắp tái diễn? Đây không chỉ là câu hỏi mà còn là một lời cảnh báo nếu xem xét  bối cảnh tình hình chính trị-kinh tế-xã hội của đất nước trong mối tương quan khu vực và quốc tế ngày nay. 

Thực tế mấy chục năm nay cho thấy có tình trạng người dân từ chỗ chỉ biết tin vào một hướng là sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sang chỗ hoài nghi hoặc không biết tin vào đâu. Đây không phải là một ý kiến suy diễn mà đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và được bàn luận công khai trong xã hội. Chỉ có điều, nguyên nhân và giải pháp thì còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
   
Còn nhớ, trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, đại đa số nhân dân từ Nam chí Bắc và cả số kiều bào còn ít ỏi lúc bấy giờ đều tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, tin đến nỗi nhiều người đã từ bỏ cả tín ngưỡng của họ để đi theo lý tưởng cộng sản. Và có thời kỳ lòng tin đó đã từng có sức lan tỏa và cuốn hút mạnh mẽ như một tín ngưỡng vậy. Tuy nhiên, lòng tin như vậy đã bắt đầu có dấu hiệu lung lay kể từ sau ngày thắng lợi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước tháng Tư năm 1975. Dấu hiệu đầu tiên là sự rời bỏ tổ quốc ra đi của hàng triệu con người không chỉ "người của chế độ cũ" mà cả các doanh nhân và dân thường. Và sự ra đi vẫn tiếp diễn cho đến nay, chỉ khác ở nhịp độ và cách thức lặng lẽ hơn và thành phần chủ yếu là người lao động, doanh nhân, học sinh sinh viên và cả giới văn nghệ sĩ, trí thức cùng một số quan chức đã nghỉ hưu hoặc đương chức. Hầu hết các trường hợp ra đi đều có tính toán với mục đích lâu dài. Thực chất đó là một dạng "chảy máu chất xám" rất không đáng xảy ra đối với đất nước trong giai đoạn cần nhân lực để phát triển. 

Sự mất lòng tin còn thể hiện ở trào lưu mê tín dị đoan vốn đã lắng xuống trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc nay lại trỗi dậy như nấm sau cơn mưa. Nó không chỉ lôi kéo dân thường mà cả cán bộ, quân nhân, kể cả đảng viên và cấp lãnh đạo. Nó cho thấy một lẽ thường tình thôi, đó là khi con người ta hoang mang thì có xu hướng tin vào những khái niệm mơ hồ huyền bí như thánh thần hoặc bất cứ điều bí ẩn nào đó để lấp chỗ trống tinh thần đang hụt hẫng của họ. Đó là lý do tại sao ngày càng có nhiều người và nhiều hình thức cúng bái cầu tài cầu lộc, cầu cho bản thân được hơn người, cầu cho thánh thần trừng trị đối phương, đối tác... Để đáp ứng nhu cầu mê tín dị đoan đang tăng lên đột xuất, hàng loạt chùa chiền, đền thờ miếu mão mọc lên như nấm trên khắp các vùng miền dưới danh nghĩa tôn tạo di tích văn hóa-tâm linh, phục hồi truyền thống tín ngưỡng v.v...

Sự mất lòng tin còn thể hiện ở  nhiều khía cạnh khác. Đó là sự sa sút về đạo đức, lối sống trong quan hệ xã hội cũng như trong ý thức chấp hành kỷ cương luật lệ của  nhà nước, v.v... Chưa bao giờ người ta có thể giết nhau một cách "máu lạnh" chỉ vì một nguyên nhân không đâu hay một lợi ích nhỏ nhoi như bây giờ. Không yêu được nhau cũng giết, để cướp vài chục nghìn đồng cũng giết, con giết cha, vợ giết chồng, thậm chí bác sĩ giết bệnh nhân, v.v...Đó là gì nếu không phải là dấu hiệu của sự suy đồi về luân thường đạo lý? Chưa bao giờ tình trạng tham nhũng ngang nhiên lan tràn trước sự bất lực của Nhà nước như bây giờ. Chưa bao giờ trật tự kỷ cương đường phố làng xã bị đảo lộn và bị vi phạm nghiêm trọng như bây giờ. Chưa bao giờ sự vô cảm trở nên như một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như bây giờ.    
  
Sự mất lòng tin bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân và yếu tố tâm lý khác nhau. Trong số những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, bên trong hoặc bên ngoài, thì sự sai lầm về đường lối chủ trương chính sách kinh tế-chính trị-xã hội đóng vai trò chính thường được nói đến bằng những bí danh "lỗi hệ thống", "lỗi cơ chế"... Vẫn biết sai lầm là hoàn toàn có thể hiểu được, nhưng tiếc rằng sai lầm mà không được kịp thời thừa nhận và rút ra bài học khắc phục. Chẳng hạn có những sai lầm phạm phải trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc như cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở thành phố và tập thể hóa ruộng đất ở nông thôn lại tiếp tục đem ra áp dụng ở miền Nam; những phương pháp và biện pháp giáo dục chính trị tư tưởng khắc khổ lại được tiếp tục áp dụng, v.v... khiến người dân không được phút ngơi nghỉ để hưởng bầu không khí hòa bình độc lập tự do và phải tiếp tục lao vào những cuộc đấu tranh, học tập, cải tạo đến sức cùng lực kiệt. Đồng thời trong lúc đó hình ảnh những người cán bộ và anh bộ đội Cụ Hồ một thời lung linh cao đẹp đã nhanh chóng biến thành những con người thực dụng tầm thường trước mắt bàn dân thiên hạ. Xu hướng tự tư tự lợi dựa vào địa vị chức quyền trỗi dậy trong tầng lớp cầm quyền với những khuyết tật vốn có của nó khiến bộ máy công quyền nhanh chóng phình to nhưng kém hiệu quả; hệ thống hành chính bị người dân gọi là "hành dân là chính"; những khẩu hiệu như "lấy dân làm gốc", "do dân, vì dân"...đã bị người dân đem ra đùa tếu hàng ngày.  Trong lúc người dân không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi thì nội bộ giới lãnh đạo ngày càng chia rẽ thành các nhóm lợi ích khác nhau, có chăng chỉ còn chung một thứ lập trường của tầng lớp đặc quyền đặc lợi với cái gọi là "lý tưởng cách mạng" bị lợi dụng làm tấm bình phong.  Sự tùy thuộc lẫn nhau trong xã hội trở nên lỏng lẻo, lòng dân ly tán với tâm lý bất tín, bất an, bất phục ngày càng lan rộng trở thành lực cản đối với tiến trình phát triển và tiến bộ của đất nước. Tâm lý mất lòng tin khiến người ta nghi ngờ tất cả  bất luận đó là thật hay giả, đúng hay sai; và nó như một hiệu ứng domino khiến tình hình ngày một tồi tệ. Một khi lòng tin trong mỗi người đã mất thì rất khó để lấy lại. Nếu trước đây Đảng bảo gì dân nghe theo, thì bây giờ mọi sự chỉ đạo đều có thể bị phớt lờ, thậm chí bị xuyên tạc bóp méo. Người ta không thể cứ kêu gọi hãy tin ở tôi vì tôi là Đảng nên bao giờ cũng do dân, vì dân..., và Đảng bao giờ cũng đúng!  

Nhiều người tin rằng hễ mất lòng tin ắt sẽ dẫn đến sự sụp đổ. Và họ quyết định ngồi đó chờ đợi trong khi những người đương quyền tất nhiên phải ra sức trì hoãn và các nhóm lợi ích thì tranh thủ cơ hội "đục nước béo cò". Sụp đổ là vạn bất đắc dĩ, nhưng nếu được sụp đổ có khi lại tốt. Điều tai hại hơn là tình trạng mất lòng tin cứ thế tiếp diễn kéo dài chỉ đủ mức để phá hỏng mọi nỗ lực phát triển quốc gia và do đó làm tăng thêm nguy cơ mất độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ trước kẻ thù truyền kiếp. Đây chính là vòng luẩn quẩn và cũng là kịch bản đáng sợ nhất của đất nước này.

Hà Nội, ngày 27/3/2014
Trần Kinh nghị

Bài cùng chủ đề:
http://www.tudoimoi.org/Aff_mot_bai.php?param=833

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

Tại sao có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt Nam và người Nhật Bản? (*)

(*) Bài viết của tác giả Phạm Hoài Nam đăng tại Đàn Chim Việt, ảnh minh họa của chủ blog tôi mới chụp trong chuyến du lịch Nhật Bản gần đây).

Đi bộ từ ga tàu điện đến nơi làm việc là cảnh tượng phổ biến

Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới. Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ quá) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.

Kể từ đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu Thái Dương Thần Nữ.

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2014

Tàu lạ, máy bay quen

Hai ngày qua cùng lúc có hai thông tin với nội dung căn bản hoàn toàn giống nhau: một về vụ mất tích của chiếc máy bay hành khách của hãng hàng không Malaysia; và một về "tàu lạ" khống chế, cướp phá tàu cá của Việt Nam xem thêm tại đây . Cả hai vụ việc đều xảy ra trên biển Đông, đều mang nội dung nhân đạo và có yếu tố khủng bố. Vụ máy bay mất tích gây thiệt hại lớn và mang tính chất quốc tế nhưng không thiết thân đối với Việt Nam trong khi vụ tàu cá hoàn toàn xảy ra trong vùng biển của Việt Nam gây thiệt hại nặng nề trực tiếp đối với dân chài Việt Nam, và đây chỉ là vụ mới nhất trong hàng ngàn vụ đã xảy ra.

Tuy nhiên, qua cách thức đưa tin và điều hành xử lý của nhà chức trách Việt Nam cho thấy một sự mất cân đối khó hiểu. Nó được thể hiện từ khâu phát ngôn đến khâu chỉ đạo các ngành, các cấp và việc đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trong khi mọi sự "ưu ái" dồn cho vụ máy bay mất tích với hàng trăm chuyến xuất kích của máy bay và tàu thủy (chắc chắn là rất tốn kém) được điều đi phục vụ việc tìm kiếm cứu hộ đối với chiếc máy bay của Malaysia thì chỉ một vài tờ báo mạng đưa tin chung chung về "tàu lạ" khống chế tàu cá của Nha Trang, tuyệt nhiên không thấy phương tiện, lực lượng nào tham gia ứng cứu. Đây không phải lần đầu dân chài bị bỏ mặc trước hành động cướp phá, phạt vạ của các lực lượng Trung Quốc. Điều đáng nói là, đổi lại sự đôn đáo của Việt Nam trong vụ máy bay mất tích, phía Trung Quốc lại lên tiếng nghi ngờ năng lực của Việt Nam đồng thời tìm cách lợi dụng vụ này để đưa thêm lực lượng vào biển Đông.

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Muốn biết công luận hãy ra công viên


Nếu quán nước chè cùng các xới bia hơi một thời được coi là chốn của "tin vỉa hè" thượng vàng hạ cám..., thì giờ đây công viên đang thay thế vị trí đó. Những nơi khác thì chưa thật sự rõ, nhưng đối với Hà Nội thì đúng vậy. Nếu không tin, bạn hãy thử dạo qua một số công viên của Thủ đô sẽ thấy.

Không biết có phải vì lo ngại sức khỏe bị ảnh hưởng bởi bia rượu hoặc lo ngại thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, người Hà Nội gần đây có xu hướng xa lánh quán bia và cố hạn chế ăn uống bên ngoài (?). Nhiều người gặp nhau ở quán cafe chưa hẳn để uống cafe mà để thư giãn hoặc vì công chuyện... Cùng với xu hướng này, số người đến các công viên ngày càng đông so với bất cứ thời kỳ nào trước đây và thành phần chủ yếu là người lớn, thời gian đông nhất là các buổi sáng và chiều tất cả các ngày (chứ không phải chỉ có thanh niên và chủ yếu vào buổi tối như trước đây). Họ đến đây để đi bộ, tập thể dục dững sinh hoặc đơn giản để hít thở không khí trong lành (chứ không phải chỉ để tỏ tình yêu đương như trước). Tùy lứa tuổi và tình trạng sức khỏe, mỗi người đến công viên với mục đích khác nhau, nhưng chung nhất là để tách khỏi căn phòng ở của họ. Nhiều người có thú vui trao đổi về các chủ đề quan tâm như sức khỏe, ăn mặc, cây cảnh...Nhưng có lẽ nội dung phổ biến nhất ở người lớn, đặc biệt những người đã nghỉ hưu, là thời sự chính trị-xã hội trong nước và quốc tế, kể cả tham nhũng, chủ quyền biển đảo...

Nếu ở nơi quán xá ồn ào náo nhiệt xô bồ, những gì phát ra từ những cái đầu nóng thường thiếu độ chuẩn xác, thì ở công viên với môi trường trong lành, thanh tịnh, những gì người ta nói ra thường có suy nghĩ và chính xác hơn. Họ có thể nói lại những gì vừa nghe được qua báo đài, tivi và cả các nguồn không chính thống qua internet mà trong đó một số trang mạng tư nhân như Anh Basam, Quê Choa,....dường như đã thế chỗ các tờ báo lớn như Nhân dân, Quân đội nhân dân. Không chỉ nói lại, họ cũng bình luận đa chiều theo nhận thức của mỗi người, có người dè dặt, có người bỗ bã nhưng nói chung đều ở mức độ vừa phải, có lúc xẩy ra tranh luận nhưng không gay gắt, vì hầu hết người tham gia không có xung đột lợi ích công tác hoặc động cơ chính trị. Những người kiệm lời có thể chỉ nghe mà không nhất thiết phải nói. Với những ai vì điều kiện nào đó ít nghe đọc thì đây là nơi để thu thập chút ít thông tin thời sự cũng không đến nỗi vô ích. Đôi khi cũng có người "thạo tin" có chủ ý đến đây để phổ biến những gì họ thu thập được đồng thời trao đổi cùng người khác như một thú vui. Đôi khi cũng có người lo ngại không dám tham gia trao đổi thảo luận vì sợ bị ai đó bí mật theo dõi, xử lý..., nhưng sau một thời gian thấy không ai việc gì thì cũng tham gia. Từ chỗ ít người đến chỗ nhiều người, từ chỗ nói ít đến nói nhiều, từ chỗ nói dè dặt đến chỗ nói mạnh, nói toạc ra...Bắt đầu có thể chỉ là một câu chào hỏi tình cờ, dần dà thành một điểm hẹn, giờ hẹn không báo trước mà ai cũng tới. Có nhóm toàn đàn ông, có nhóm toàn phụ nữ, đôi khi có cả nam nữ. Nội dung không phải lúc nào cũng chính trị thời sự mà thường bắt đầu bằng những thông tin về đời sống giá cả thị trường..., nhưng kết thúc thường vẫn quy về nguyên nhân chính trị xã hội với sự ca thán về thực trạng yếu kém của các cơ quan công quyền. Mà không sao được (?) khi đó toàn là sự thật!

Người ta bảo nhau: Giá như các vị lãnh đạo cũng dạo công viên như chúng mình chắc sẽ biết thêm về công luận và đỡ quan liêu..., đôi khi sờ gáy ngoái đầu soi lại bản thân thì cũng tốt!

Trần Kinh Nghị

Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

Trung Quốc có đánh Việt Nam nữa không?

35 năm nay cứ vào dịp 17/2 hàng năm không chỉ người Việt Nam mà người Trung Quốc và thế giới không khỏi phân vân: Liệu Trung Quốc lại đánh Việt Nam (?), nếu có thì bao giờ, khởi chiến từ đâu và như thế nào...(?) Mối lo này sẽ mãi còn đó chừng nào tư tưởng Đại Hán bành trướng vẫn còn, ít nhiều chỉ phụ thuộc vào thế mạnh yếu của nó trong mối tương quan lực lượng mà thôi.

Tàu cá Trung Quốc dàn hàng ngang với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tiến ra biển Đông

Trong những năm gần đây cùng với một Trung Quốc "đang trỗi dậy" khá thành công thì các mối "họa Trung Hoa" cũng ngày càng tăng lên đối với nhân loại. Đó là sự thật không chỉ trong lĩnh vực an ninh quốc phòng mà cả trong lĩnh vực an ninh lương thực, thực phẩm, y tế, giáo dục, môi trường và sự phát triển nói chung. Chính vì thực tế này mà một tài liệu nghiên cứu của Australia đánh giá Trung Quốc là hiểm họa số một, và Thủ tướng Nhật Bản mới đây ví Trung Quốc như Đức trước thế chiến II. Trên thực địa, các lực lượng quân sự Trung Quốc đang dương oai diễu võ không chỉ trong các vùng biển quốc tế mà còn trong vùng biển, vùng trời của các nước láng giềng từ biển Hoa Đông xuống biển Đông. Tình hình cho thấy giới lãnh đạo hiện thời của nước này đã bỏ qua lời giáo huấn "ẩn mình chờ thời" của ông Đặng Tiểu Bình quá cố và nóng lòng muốn thực hiện tham vọng bá chủ càng sớm càng tốt, trong đó việc trước tiên là độc chiếm biển Đông mà họ trân tráo tuyên bố là "lợi ích cốt lõi". Để làm điều này họ chọn cách bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp công lý và đạo lý.

Lính Trung Quốc đằng đằng sát khí

Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2014

Không có cái gọi là “Từ Hán Việt”?

 Đó là tiêu đề bài viết của tác giả Hà Văn Thùy - người được biết luôn trăn trở về  nguồn cội của dân tộc Việt Nam-  được đăng tải trên một số trang mạng trong thời gian gần đây. Chủ Blog Bách Việt xin tạm miễn bình luận về nội dung, chỉ mạn phép đăng lại bài viết khá công phu này của tác giả với một dấu hỏi (?). Hy vọng với  loạt bài cùng chủ đề của các tác giả khác nhau đã, đang và sẽ được đăng trên trang Bách Việt, bài viết của ông Hà Văn Thùy cung cấp thêm một cách nhìn về nguồn cội dân tộc và ngôn ngữ Việt Nam mà đến nay vẫn tồn đọng những góc khuất chưa được giải mã.  Dưới đây là nguyên văn nội dung bài viết ( Chủ Blog Bách Việt)
Trên trang mạng Bách Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài “Di sản Hán Việt”  http://trankinhnghi.blogspot.com/2013/11/di-san-han-viet.html. Sau khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt, ông cho rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa hoặc thoái hóa.” Kết thúc bài viết, ông đề nghị Nhà nước có biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.

I. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán?


Muốn giải quyết thỏa đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới tận cùng cội nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người Trung Hoa.

Nửa sau thế kỷ XIX, ngay khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Vệt Nam, những học giả người Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con người, văn hóa, xã hội xứ Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà nước bảo hộ Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội. Đứng đầu lĩnh vực khoa học nhân văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L. Maspéro… Là học giả phương Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của châu Á. Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri thức sai lầm đương thời cho rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung Quốc rồi sau đó xuống Việt Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng từ Trung Hoa lan tỏa tới phương Nam. Khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam, họ có trong tay những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải, Tứ khố toàn thư, Khang Hy… Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển Việt-Bồ-La của Alexander de Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ, tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: “Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!”
Sự thật có đúng như vậy không?
Vào năm 1898, H. Frey, một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau đó có mặt ở Việt Nam, đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L’Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông Dương. Bằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông. Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình. Tuy nhiên, các viện sĩ của Viễn Đông Bác Cổ “không thèm chấp” gã tay ngang võ biền. Không chỉ vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu của mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục phần thắng thuộc về bậc lão làng!

Kết luận của Viện Viễn Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt không chỉ vào văn hóa mà cả vào tương lai dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm này mà sau đó, khi phân loại ngôn ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ Annam bị bãi bỏ do “không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!” Thay vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer. Kết quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học hàng đầu thế giới vẫn viết “Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa (!)” Dù sao thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số chúng ta tự nhận!

Điều khủng khiếp nhất là, vào thập niên 1920, các học giả tiên phong người Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố… tiếp nhận tri thức sai lầm đó, dạy cho con dân Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập niên 80, trong công trình ngữ học công phu Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn “khám phá”: ngoài cái gọi là “từ Hán Việt”, trong tiếng Việt còn lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1). Không đưa ra con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ sung đó, có lẽ tỷ trọng vay mượn của tiếng Việt còn tăng lên gấp bội!

Nhưng dù sao, đấy chỉ là tính toán của nhà bác học, còn với người dân Việt, ít người tin, chỉ vì lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn đến bằng nấy tiếng nước ngoài không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị đồng hóa sau nghìn năm nô lệ!

Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2). Rất may là ý tưởng “điên rồ” đó chẳng những không bị ném đá mà còn không rơi vào im lặng. Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm…(3) trong đó dẫn ra hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy, tiếng nói nguyên thủy của người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt Triều Châu của tôi khẳng định: “Tất cả các chữ tượng hình được làm ra là để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông chỉ khi đọc và giải nghĩa bằng tiếng Việt mới chính xác!” Một sự ủng hộ vô giá! Càng may hơn là đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống với chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc, chúng tôi nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa (5)!

Như vậy, sang thế kỷ này, nhờ tiến bộ của khoa học thế giới, nhờ tấm lòng và công sức của cộng đồng người Việt, không những chúng ta xác định được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà cả chữ viết.

Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau:

Nhiều dữ liệu khoa học cho thấy, 40.000 năm trước, người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều Hoàng Đế. Trong vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói Việt. Do ngôn ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng nói vương triều. Cùng với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội, đã áp đặt dân chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance: tính từ đứng trước danh từ, hay như ta vẫn gọi là cách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư vương triều Hoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ. Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị kiêm tính cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên địa bàn rộng với thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly thành nhiều phương ngữ. Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông), Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi nhà Hán, triều đình khuyến khích nói theo Nhã ngữ.

Vấn đề khác cũng cần minh định là ảnh hưởng của chữ viết tới sự hình thành ngôn ngữ phương Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm nhất ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước. Khảo cổ học cũng cho thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được khắc trên xẻng đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó được đưa lên đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một trung tâm lớn của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa, về sau được gọi là văn Giáp cốt.

Chữ viết trên yếm rùa và xương thú là chữ đơn lập, không thể ghép vần. Tiếng Việt cổ vốn đa âm nên muốn được ký âm buộc phải đơn âm hóa. Do đó, tại trung tâm đầu não của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng Tây tới Hà Nam, tiếng nói chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh: tiếng nói thì nhiều nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng tiêu biểu mới được ký tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những tiếng nói tiêu biểu nhất của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn ra trong cộng đồng Việt mà người Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời Thương không biết. Khi vua Bàn Canh chiếm đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384 TCN), mới biết chữ Giáp cốt của người Dương Việt. Với nhà nước được tổ chức tốt, Bàn Canh đã tiếp thu và cải tiến chữ của người Việt để ghi việc bói toán, cúng tế cùng địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình nhà Ân, những “họa sư”- người vẽ chữ, “bốc sư”- thày bói, người Việt, được “lưu dụng” làm công việc này. Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết chữ trên thẻ tre, trên lụa, cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà Tần vốn là bộ lạc người Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt thành chữ Triện tồn tại tới nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo ra chữ Giáp cốt mà người Việt còn tích cực góp phần cải tiến, hoàn thiện chữ viết. Do đó quá trình đơn âm hóa tiếng nói được đẩy mạnh.

Sau đời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người thiểu số phía Tây thâm nhập, khiến cho tiếng nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường giọng điệu du mục. Tiếng nói của cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc người trong nước không hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều dùng tiếng nói của kinh đô làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan thoại ra đời. Nhà Đường lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói chính thức, được gọi là Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người Tràng An nói thời nhà Đường. Đấy là bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được ký tự bằng chữ vuông. Đường âm được mang sang dạy và giao dịch ở Việt Nam. Khi giành được quyền tự chủ, nước ta thoát ách đô hộ của phương Bắc về chính trị, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng hình vẫn là chữ viết chính thống và Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Trong khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự thay đổi của vương triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh là tiếng nói chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người dùng. Nhà Mãn Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc thống nhất ngôn ngữ. Chỉ tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa nỗ lực thực hiện cuộc đồng hóa khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ sóng trên phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, tới nay trong vùng Nam Dương Tử vẫn có khoảng 20% từ địa phương, truyền miệng trong dân gian mà không được ký tự.

Một vấn đề từ lâu được đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở nước ta từ bao giờ? Chưa ai xác định được ! Chúng tôi không biết, hàng nghìn năm trong nước Văn Lang, vùng đất bây giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý Châu khoảng 150 km, có sử dụng chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di duệ của người Lạc Việt ở Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu số hóa, vẫn giữ được sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn của tổ tiên Bách Việt, gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa thạch sống, một bảo vật văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là, muộn nhất, chữ Nho có mặt ở nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu với rất nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ điều này. Chắc chắn rằng, trong 100 năm xây dựng và bảo vệ Nam Việt, nhà Triệu đã dùng chữ Nho trong hành chính, luật pháp và dạy học. Vì vậy, khi sang nước ta, Mã Viện phát hiện “Luật Giao Chỉ có tới 10 điều khác luật nhà Hán”(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ Nho. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với việc phổ biến chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm.

Một câu hỏi: khi sang nước ta, người của Triệu Đà rồi quan quân nhà Hán nói tiếng gi? Sử ký viết, “Đà giết trưởng lại người Tần rồi đưa người của mình lên thay.” Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu Đà và tâm phúc của ông là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp tiếng Việt Quảng Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực. Thời Hán cũng tương tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người phương Bắc thì tới nước ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người Việt, cho dù có nói ngược theo cách nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì lẽ đó, rất có thể hai bên gần như hiểu được nhau. Vì vậy, việc học chữ Nho khá dễ dàng.

Về sau, qua mỗi thời đại, tiếng của quan quân phương Bắc lại khác đi. Đến thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An được dùng làm quan thoại. Thực chất, đó là tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều này cho thấy một bộ phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa âm, không thanh điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng nói của bộ phận cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa như vậy?

Sau thời Đường, nước ta độc lập, chữ Nho trở thành quốc ngữ. Theo dòng thời cuộc, tiếng nói của người Trung Hoa thay đổi, ngày càng xa gốc Việt. Chẳng những người Việt không hiểu tiếng người phương Bắc mà người Trung Quốc cũng không còn nói được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ còn người Việt Nam thưởng thức trong âm điệu tuyệt vời.

Từ phân tích trên chứng tỏ rằng, tiếng Việt không những không vay mượn mà trái lại, còn là gốc gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa. Cái mà nay người ta quen gọi là “từ Hán Việt” là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội nguồn sinh học cũng như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết.


II. Vai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa dân tộc

Như đã nói ở trên, tiếng thì nhiều nhưng chữ làm ra quá ít nên tổ tiên ta bắt buộc phải chọn thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là những tiếng có nội dung sâu sắc, hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi là ngôn ngữ hàn lâm. Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng còn vô số tiếng không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần những tiếng không được ký tự bị mai một.

Trong khi đó, ở miền nam, chúng trở thành từ địa phương, được truyền miệng trong dân gian. Ở Việt Nam tình hình tương tự. Khi làm chủ đất nước, người Việt thấy quá nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần đã mô phỏng chữ Nho để tạo ra chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không được coi là văn tự chính thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng chữ Nho, nên nhiều địa danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả kháng ngày xưa khiến nay nhiều người bức thúc.

Một vấn đề cũng cần bàn cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi xác đáng cho lớp từ đặc biệt này. Thoạt kỳ thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó được gọi là chữ Nho. Ở miền Nam cho tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên 1960, các học giả miền Bắc gọi là “từ Hán Việt”. Một thời gian dài nửa thế kỷ ta chấp nhận tên gọi đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm “từ Hán Việt” lại mâu thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của Hán, còn cách đọc của Việt, ghép lại thành “từ Hán Việt.” Nhưng như phát hiện của Nguyễn Tài Cẩn, cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường! Như vậy, theo cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và cách đọc đều của người Hán, nên không thể là “từ Hán Việt!”. Nay ta thấy không thể tiếp tục dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng dùng tên nào thích hợp hơn?

Đường âm là đúng nhưng bây giờ không thể trở lại tên gọi này vì đó là sản phẩm của một thời điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó không phải là tiếng nói thời nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung Hoa hôm nay. Có lẽ tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có nghĩa là chữ của nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim Định, là sản phẩm của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là “từ Hán Việt” vì người ta lầm tưởng đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy nhiên cách hiểu như thế vừa không chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng lên tâm trí chúng ta một cảm giác lệ thuộc bên ngoài. Thực chất, đó không phải “từ Hán Việt” mà là tiếng Việt cổ. Khác với nhiều ngữ khác, tiếng cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt cổ vô cùng sống động. Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có biến động lớn, chữ Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác. Mấy trăm năm trước, khi chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một học giả phương Tây từng nói đại ý: Chúng ta trao cho người Annam một thứ chữ dễ học, giúp họ nhanh chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho thế hệ tương lai của họ cắt đứt với nguồn cội. Hôm nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với toàn bộ nền văn hóa Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu tiếng nói của tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất.

III. Kết luận

Hàng ngàn năm nay do ngộ nhận nên ta cho rằng, bộ phận tinh hoa, quan trọng nhất của tiếng Việt là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo nên nỗi đau ngàn năm khi ta vừa căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù dùng để đồng hóa, nô lệ mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng nhưng rồi mỗi khi dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn!

Nay chúng ta phát hiện ra sự thật: không hề có cái gọi là “Từ Hán Việt”! Đó chính là chữ Việt, tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo trong quá khứ. Việc khẳng định bản quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc biệt, nó giúp ta tự tin, làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay là tuyên truyền để mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là nghiên cứu sử dụng vốn tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây dựng văn hóa dân tộc.

Cái to nhất ngăn trở ta dám nhận lại tài sản vô giá này là thói nô lệ, thói tự kỷ ám thị nặng nề khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản quý báu của tổ tiên cho người ngoài để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị đè bẹp dưới cái bóng hoang tưởng!

Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản vô giá này?

Nhiều người đã hiểu cơ sự nên kiến nghị khôi phục việc học chữ Nho. Đấy là việc không thể không làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của chữ Nho. Tính triết lý sâu xa, ý nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết nào, giúp người học rèn trí thông minh, luyện tư duy… Chỉ điều này mới giúp chúng ta tiếp nối với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học giả nước ngoài cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và kế hoạch lớn. Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình tiếng Việt phổ thông, nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ, nhằm giải nghĩa những từ thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ điển tiếng Việt.

Chúng tôi xin mạo muội đề nghị, cần một cuộc cách mạng loại bỏ thuật ngữ “từ Hán Việt” khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Tài Cẩn – Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1979

2. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.

3. Đỗ Ngọc Thành. Nhannamphi.com

4. Hà Văn Thùy. Chữ Việt chủ thể sáng tạo chữ viết Trung Hoa http://huc.edu.vn/chi-tiet/1868/Chu-Viet-la-chu-the-sang-tao-chu-viet-Trung-Hoa.html


6. Hậu Hán thư- Mã Viện truyện

7. Hà Văn Thùy – Nỗi bất an của lịch sử http://trannhuong.com/tin-tuc-15551/noi-bat-an-cua-lich-su.vhtm

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Cho bọ xin con cá ăn nốt bát cơm

Thiết kế phối cảnh Nhà Quốc Hội
Mấy hôm rồi có dịp đi qua Ba Đình được mục sở thị tòa Nhà Quốc Hội lâu nay nghe giới xây dựng và truyền thông hết lời ca ngợi giờ đang ở giai đoạn hoàn thiện. Quả không sai nếu xét về vị trí đắc địa của nó...Nhưng hình dáng bề ngoài thì không ngờ lại quá bình thường, chẳng giống mấy so với bản vẽ thiết kế, đặc biệt tòa tháp được coi là "điểm nhấn" của công trình thì lùn tịt chẳng thấy đâu.
Bất giác mình cảm thấy có cái gì vừa tiếc vừa buồn... Lẽ nào bất chấp mọi ý kiến phản bác, đặc biệt của Tướng Giáp, người ta đã quyết tâm đập bỏ Hội trường Ba Đình để đổi lấy khối cấu trúc đồ sộ này?  Hay vì mình là "người trần mắt thịt" nên không biết thưởng thức tính thẩm mĩ cao siêu của nó ?....

Đang phân vân ...thì hôm nay đọc tin thấy nói Bộ Xây dựng vừa có Tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo về việc rà soát, điều chỉnh tổng mức đầu tư Dự án xây dựng công trình Nhà Quốc hội . Xem chi tiết tại đây  http://dddn.com.vn/bat-dong-san/de-nghi-bo-sung-hon-2000-ty-cho-du-an-nha-quoc-hoi-2014011510293227.htm , 

Theo công văn này, người ta viện ra đủ thứ lý do nghe cũng rất lâm ly chi tiết...để xin thêm 2.040 tỷ đồng bổ sung khinh phí đã được chính thức phê duyệt là 4,797,043 tỷ đồng nhằm hoàn thiện công trình cho thật mĩ mãn! Như vậy. tuy gọi là "kinh phí bổ sung" nhưng bằng gần 1/2 tổng kinh phí đã duyệt nâng tổng giá giá trị công trình lên gần 7 tỷ đồng là quá nhiều và không bình thường.
   
Vẫn biết chiêu trò xin thêm quả ớt, qảu cà rồi đến con cá.., để "ăn nốt bát cơm" kiểu này  là chuyện luôn xảy ra với những dự án nhỏ lẻ cục bộ hoặc các dự án khó nghiệm thu như cầu, đường, khai khoáng... , không ngờ bây giờ lại diễn ra với một dự án cấp cao nhất trước mặt bá quan văn võ giữa Quảng trường Ba Đình thế này thì hết chỗ nói !   

Trần Kinh Nghị
Ngày 19/01/2014  

Tìm kiếm Blog này