Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Việt Nam được mất gì từ quan hệ với Trung Quốc?

http://sohanews2.vcmedia.vn/zoom/476_312/2013/14f83fdce4fb26.img-d6f1c.jpgThủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường sẽ đến Việt Nam ngày 13/10 trong một chuyến thăm chính thức cấp cao nhất kể từ cuộc chiến tranh biên giới 1979. Sự trùng hợp ngẫu nhiên của chuyến thăm vào thời gian quốc tang của vị Tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp, biểu tượng cuối cùng của thế hệ chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam khiến người ta liên tưởng đến một điềm báo trong quan hệ Việt-Trung. Sự trùng hợp này có thể gây ra một vài khó khăn trong việc thu xếp nghi thức sao cho phù hợp và tránh gây hiểu nhầm, nhưng là một thời điểm chín mùi để người Việt Nam nhìn lại quá trình đã qua và định hình mối quan hệ với nước lớn láng giềng phương Bắc trong tương lại. Bài viết ngắn này không có tham vọng trình bày cặn kẻ toàn bộ chủ đề rộng lớn này mà chỉ đề cập một khía cạnh thiết thực: Việt Nam được-mất gì từ quan hệ với Trung Quốc?



Quan hệ truyền thống bất bình đẳng 
Nhiều người coi sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam đã hoàn thành bằng việc đánh đuổi thực dân Pháp và can thiệp Mĩ. Nhưng thực ra đó chỉ là một giai đoạn của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc vẫn chưa hoàn thành kể từ thời kỳ "nghìn năm Bắc thuộc". Lập luận này không phải là vô lý, nhất là nếu biết rằng đó là cách hiểu phổ biến của  người Trung Quốc, điển hình là Giáo sư-tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh khi ông này hùng hồn tuyên bố trước Hội thảo quốc tế về Biển Đông tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2010:  “Cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Và ông ta sử dung luận điểm này để biện minh cho đường ranh giới dứt đoạn hình lưỡi bò bao trọn 80% diện tích Biển không khác nào một hàng rào thô sơ dựng lên bởi một lão địa chủ tham lam trong sân nhà người hàng xóm! Điều trớ trêu là đường lưỡi bò này vừa được Bắc Kinh lôi ra từ sọt rác tư liệu vốn chỉ là một đường chấm phá ngẫu hứng của một viên sĩ quan thời Tưởng Giới Thạch. Rõ ràng cách hiểu này cho thấy vì sao Bắc Kinh đã rất sẵn sàng hậu thuẫn Việt Nam chống Pháp, Nhật, Mĩ và cả Nga. Đó cũng là lý do tại sao sau chiến thắng 1975 và thống nhất đất nước, Việt Nam đã bị chính người đồng chí phương Bắc tấn công từ biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc, từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Nếu không vì ảo vọng khôi phục bá quyền thì Bắc kinh đã không hành động như vậy!

Về phần mình, người Việt Nam tự hào đã đánh bại thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mĩ, coi đó là hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tổng Bí thư Lê Duẩn từng đánh giá (đại ý): Từ nay không kẻ nào dám đánh Việt Nam nữa! Nhưng nhận định đó đã mau chóng cho thấy là hảo huyền trước một nước lớn láng giềng phương Bắc luôn lăm le phục dựng vị thế Vương triều đã có trước thời Pháp thuộc. Đó là nội sâu xa của bài học mà nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã muốn "dạy" người Viêt Nam.

Tóm lai, có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để nói rằng, không chỉ thời Vương triều mà thời Xã hội chủ nghĩa, người Trung Quốc vẫn tiếp tục coi Việt Nam là phiên thuộc, và rõ ràng có sự khác nhau trong cách hiểu về chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ giữa người Việt Nam và người Trung Quốc. Do sự khác biệt này, rất khó (nếu không nói là không thể) để có quan hệ bình thường giữa hai quốc gia dân tộc này. Nó không  giống quan hệ Mỹ - Mêhicô, cũng không giống quan hệ Mỹ-Cu Ba....mà là một loại quan hệ gượng ép, trong đó phía Việt Nam dù luôn cố tỏ ra khiêm nhường theo kiểu "tránh voi chẳng xấu mặt nào" nhưng  phía Trung Quốc bao giờ cũng muốn áp đặt và khuất phục.     

Quan hệ là cần thiết nhưng thân thiết thì không!     
Vẫn biết do thế đất trời và do truyền thống lâu đời, người Việt Nam không thể không giao hữu với láng giềng phương Bắc. Nhưng đó là quan hệ để tồn tại chứ không phải để phát triển . Người Việt có câu ngạn ngữ mang tính thực dụng: "Bán anh em xa, mua láng giềng gần" đồng thời cũng có nhận xét bỗ bã nhưng thâm thúy: "Xa thơm, gần thối". Nó hợp thành một thứ triết lý sống của họ trong ứng xử không chỉ ởquy mô làng xã và quốc gia mà cả trên quy mô quốc tế, đặc biệt với nước lớn láng giềng phương Bắc từ bao đời nay. Mặt khác, các chí sĩ thuộc nhiều thế hệ người Việt vẫn luôn đau đáu tìm lối thoát qua các phong trào như Duy tân, Đông kinh nghĩa thục hay "thoát Á" và hiện nay là phương châm "Làm bạn với tất cả".
Giờ đây sau khi đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, người Việt Nam chợt nhận ra rằng nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ vẫn tiếp tục bị đe dọa bởi "nước ngoài" (một cách diễn đạt mơ hồ vì lý do tâm lý và chính trị) dù ai cũng biết nó đến từ phương Bắc. Đây thực sự là một nghịch lý đối với bản thân người Việt Nam chừng nào họ vẫn tin rằng thế núi liền núi sông liền sông buộc mối quan hệ Việt-Trung muôn đời không thể khác. Đồng thời, trãi qua "nghìn năm Bắc thuộc" và "trăm năm Pháp thuộc" cho thấy không có sự lệ thuộc ngoại bang nào là tốt cả,  nhưng trong thời kỳ 100 năm Pháp thuộc bờ cõi đất nước được giữ vững từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Về cơ hội phát triển cũng thấy hiện tượng tương tự, đó là các cơ sở hạ tầng và công-thương nghiệp (dù hạn chế do "cách bóc lột bủn xỉn" của người Pháp) vẫn tạo nên sự khác biệt so với thời Vương triều. Thực tế cũng cho thấy viện trợ từ Trung Quốc chỉ giúp miền Bắc tiến hành chiến tranh nhưng không giúp phát triển. Nền kinh tế Việt Nam chỉ thực sự khởi sắc sau khi bị Trung Quốc cắt viện trợ. Từ khi hai nước "bình thường hóa quan hệ" lại xuất hiện tình trạng trì trệ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ và khoa học-kĩ thuật, vì Trung Quốc toàn đưa sang những máy móc, trang thiết bị lạc hậu cùng các thủ đoạn kiềm chế vốn có của họ. Dự án khai thác bauxit Tây Nguyên và hàng loạt các công trình nhiệt điện, khai thác tài nguyên khoáng sản, v.v... là những ví dụ. Sự tràn ngập hàng hóa thứ cấp rẽ tiền và hàng có độc tố xuyên qua biên giới đang thực sự đe dọa nền kinh tế Việt Nam. Trong cơn sốt vốn đầu tư hiện nay, không loại trừ khả năng một ngày kia nhà máy, hầm mỏ, ruộng đồng, rừng, biển sẽ rơi vào tay các ông chủ  Trung Quốc.

Đã đến lúc để giới lãnh đạo chính trị và giới doanh nhân Việt Nam cần tỉnh táo nhận ra nguy cơ càng xích gần với Trung Quốc sẽ càng hạn chế cơ hội tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Về điểm này Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á nhờ biết giữ khoản cách cần thiết với Trung Quốc đã  có thể phát triển vượt trội và làm nên những kỳ tích chỉ trong thời gian trên dưới 30 năm. Trong khi đó Việt Nam đã để tuột mất hết cơ hội này sang cơ hội khác trong hơn 40 năm qua do lấn bấn không thể thoát khỏi vòng cương tỏa của ông bạn lớn.  Tuy nhiên, cơ hội vẫn còn đó khi Trung Quốc dù được coi là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới nhưng còn lâu để thực sự thoát khỏi tình trạng lạc hậu và nghèo đói.   
                    
Đừng sập bẩy "chia để trị"!
Xin quay lại với chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường. Việt Nam là điểm dừng chân cuối cùng trong hàng loạt chuyến công du mới đây của các nhà lãnh đạo Trung Quốc thay nhau đến các nước ASEAN. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh tình hình tranh chấp Biển Đông có những diễn biến bất thường, đặc biệt nền kinh tế Mĩ rơi sâu vào khủng hoảng  khiến nội bộ chia rẽ và Chính phủ Liên bang hết tiền tiêu(!) đến nỗi Tổng thống Obama không thể tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAC) và Hội nghị cấp cao APEC 21. Đó là một cơ hội hiếm có  đối với Bắc Kinh để phát huy vai trò nước lớn tại các diễn đàn khu vực và không bị thúc bách trong vấn đề giải pháp Biển Đông. Với khả năng tài chính dồi dào hơn Mĩ, Bắc Kinh giờ đây có thể tung ra để "mua" các đối tác khu vực  nhằm thực hiện ý đồ chia để trị trong nội bộ khối ASEAN, cụ thể vừa đạt được những thỏa thuân chưa từng có trước đây với Indonessia (trong đó có hiệp định đánh cá xuyên Biển Đông), ký đối tác chiến lược với Malaysia, tăng cường quan hệ toàn diện với Thái Lan, Singapore, Brunai, Mianma) Có thể nói đến nay hầu hết các nước thành viên ASEAN đã được "tranh thủ", riêng Campuchia đã bị khống chế, bởi Bắc Kinh,  chỉ còn  Philipin và Việt Nam là hai nạn nhân phải chật vật tìm cách riêng của mỗi nước để đối phó với kẻ thù chung. Điều này có nghĩa Bắc Kinh đã cơ bản hoàn thành âm mưu chia rẽ khối ASEAN - một việc mà cách đây vài năm tưởng còn rất xa vời. Trong khi đó cái gọi là "chủ trương xoay trục" của Mĩ thực tế bị gián đoạn, nếu không nói là "đánh trống bỏ dùi".

Trong bối cảnh nêu trên, không khó để dự đoán sứ mệnh của chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường là nhằm hoàn thiện chiến dịch chia để trị theo kịch bản đã hình thành rõ nét từ chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Việt Nam và được trình diễn màn đầu tiên bằng việc giảm cường độ lấn chiếm trên biển khiến nhiều người nhầm tưởng đó là sự đáp lại trước thái độ khiêm nhường của giới lãnh đạo Việt Nam. Nói cách khác, Bắc Kinh đang chủ động thực hiện kịch bản mà họ đã dàn dựng nhằm kéo dài thời gian chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho mục tiêu lợi ích cốt lõi là độc chiếm Biển Đông. Trong kịch bản này Việt Nam dù giữa vị thế một vai diễn chính nhưng phải diễn như một vai phụ. Đó là điều Bắc Kinh mong muốn. Về quan hệ song phương thuần túy, chưa biết khách mang theo những gì trong hầu bao, nhưng chắc chắn mục đích chính sẽ nhằm "nắn dòng" và đưa Việt Nam hoàn toàn trở lại trong vòng kim cô của Trung Quốc. Chắc chắn những lời hay ý đẹp sẽ được nhắc đến nhiều hơn, nhưng tâm địa thì vẫn chưa thay đổi đâu.

 Xem ra chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường mang đến cho Việt Nam nhiều điềm xấu hơn là điềm tốt, và đó là một phép thử nữa đối với giới lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may, hy vọng rằng sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang đánh thức tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của toàn dân tộc trước vận nước. Và điều này nhắc nhỡ giới lãnh đạo và doanh nhân đề cao cảnh giác và tỉnh táo hơn chăng?    




2 nhận xét:

  1. Thành thật mà nói thì bài này tôi cho là hay nhất trong những bài viết
    của bác,thậm chí hơn một số bài của tác giả khác ở blog này.
    Thế nhưng,tôi lại bi quan chẳng biết có ai nhận ra để chấn chỉnh kịp
    thời hay lại...lỡ tàu ! Mà lỡ tàu lần này thì chỉ có đại thảm họa !

    Trả lờiXóa
  2. Bài viết hay, sắc sảo và khá chính xác. VN còn mất nhiều hơn nữa: chủ quyền, lãnh thổ, thị trường, nguy cơ bị đồng hóa...Tôi sẽ đăng lại bài này trên blog của tôi để thêm nhiều người đọc.
    Phạm Hải

    Trả lờiXóa

Hoan nghênh mọi ý kiến thảo luận, nhưng làm ơn viết tiếng Việt có dấu và không chửi tục.

Tìm kiếm Blog này