Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

Luật Biển Việt Nam có hiệu lực bắt đầu từ hôm nay 1/1/2013

Bất chấp mọi diễn biến tình hình, có hai động thái quan trọng khẳng định lập trường kiên định trước sau như một của Việt Nam liên quan đến chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông, đó là tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước Quốc Hội tháng 11/2011 và việc Quốc Hội  thông qua Luật Biển tháng 6/2012, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2013.
    
Nội dung cơ bản của Luật Biển Việt Nam
Luật Biển Việt Nam được Quốc hội của Việt Nam thông qua vào ngày 21/6/2012. Luật này gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013

Chương 1: gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, định nghĩa.

Chương 2: quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải.

Chương 3: quy định về hoạt động trong vùng biển Việt Nam, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải.

Chương 4: dành cho phát triển kinh tế biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển.

Chương 5: quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển.

Chương 6: Quy định về xử lý vi phạm và biện pháp ngăn chặn.
Toàn văn  Luật Biển Việt Nam

Một số bình luận quốc tế

​​Biển Đông sẽ tiếp tục dậy sóng trong năm 2013, dựa trên những tin tức trong ngày cuối năm liên quan tới cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo và tài nguyên ở Biển Đông giữa Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, và một số nước khác trong khu vực.

Chương trình Talk Vietnam khi loan tin này hôm nay nói rằng đây là lần đầu tiên có luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam.

Talk Vietnam nói rằng Luật Biển Việt Nam quy định về lãnh hải, nội thủy, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các quần đảo khác thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Luật biển Việt Nam khẳng định đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Luật này quy định các hoạt động trong vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, cũng như vấn đề phát triển kinh tế, quản lý và bảo vệ biển đảo.

Theo quy định của Luật Biển, các cơ quan, tổ chức và công dân Việt Nam đều có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển, đảo và quần đảo, tài nguyên và môi trường biển.

Một số luật khác cũng trở nên hiệu lực từ đầu năm dương lịch cùng với Luật Biển Việt Nam, gồm có  Luật Giáo dục đại học, Luật Công đoàn, Luật về Giá cả, Luật Giám định Tư pháp, Luật Tài nguyên nước, và Luật phòng, chống rửa tiền.

Trong khi đó, Hãng tin Reuters tường trình rằng Trung Quốc hôm nay đã có động thái nhằm giảm thiểu mức độ căng thẳng trong cuộc tranh chấp Biển Đông, nói rằng các quy định cho phép cảnh sát biển Trung Quốc kiểm soát tàu bè qua lại trong vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền chỉ có hiệu lực ngoài khơi vùng duyên hải gần kề đảo Hải Nam mà thôi.

Các quy định này cũng sẽ có hiệu lực vào đầu năm tới đã gây ra quan ngại sâu xa trên khắp khu vực Đông Nam Á , vì các nước lo sợ rằng Trung Quốc sẽ có thái độ cứng rắn hơn trong cuộc tranh chấp Biển Đông.

Quan ngại càng lên cao vì trên nguyên tắc, Hải Nam có quyền quản lý và tài phán đối với vùng biển và các đảo mà Trung Quốc đòi chủ quyền, làm dấy lên lo ngại là cảnh sát biển Trung Quốc có thể lùng soát bất cứ tàu bè nào qua lại trong vùng này.

Nhưng lên tiếng trong một cuộc Hiến Pháp báo thường lệ hôm nay, Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bà Hoa Xuân Doanh, khẳng định rằng quy mô của các quy định do truyền thông nhà nước loan báo hồi tháng 11, không đề ra thay đổi nào so với các luật lệ đã được thông qua hồi năm 1999, hạn chế việc thi hành luật lệ trong vòng 12 dặm từ bờ biển đảo Hải Nam.

Đây là lần đầu tiên nhà nước Trung Quốc giải thích chi tiết về địa bàn thi hành các quy định mới.

Các nhà ngoại giao hàng đầu ở Đông Nam Á đã khuyến cáo rằng luật này có thể khơi ra những trận đụng độ giữa các lực lượng hải quân, tác động tới nền kinh tế khu vực, trong khi chính phủ Hoa Kỳ cho hay sẽ yêu cầu Trung Quốc xác minh luật này.
Nguồn: Reuters, Tuoi Tre,VOA tiếng Việt

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Khôn ngoan đối đáp người ngoài...

Trong bài giảng của Đại tá Tiến sĩ Phó Giáo sư Trần Đăng Thanh mới đây có đoạn kể:  "Ngày 11 đến ngày 15 tháng 10 năm 2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của chúng ta sang thăm Trung Quốc theo lời mời của ông Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào. Ông Hồ Cẩm Đào nói đường 9 đoạn là do Quốc dân đảng để lại, Đảng cộng sản Trung Quốc có thực hiện thì nhân dân Trung Quốc mới theo.... Ông Hồ Cẩm Đào vừa dứt thì đồng chí Nguyễn Phú Trọng nói lại luôn: Các đồng chí nói chưa đúng. Quốc dân đảng để là 11 đoạn, các đồng chí xóa đi 2 đoạn, đấy là một. Quốc dân đảng để lại Đài Loan độc lập, các đồng chí đang xóa Đài Loan rồi.

Ý ông Thanh muốn qua chuyện trên để nói rằng lãnh đạo ta cũng đấu đá thẳng thắn với phía Trung Quốc về vấn đề Biển Đông...Nhưng thực ra bất cứ ai tuy không được chứng kiến  toàn bộ cuộc đàm đạo giữa hai nhà lãnh đạo Trung-Việt, cũng có thể hiểu rằng lời đối đáp trên của nhà lãnh đạo tối cao của Việt Nam như vậy là không thỏa đáng, nếu không nói là chưa phát huy hết lợi thế của Việt Nam. 

Một là không nên nói câu "....các đồng chí đang xóa Đài Loan rồi". Câu này chỉ tổ gây mất lòng "bạn" mà cũng trái với lập trường trước nay của Việt Nam là ủng hộ một nước Trung Quốc. Hai là, không có gì đáng để phê phán về việc xóa 2 đoạn (thuộc Vịnh Bắc Bộ), họ phải tự xóa đi mình gợi lại làm gì (?). Điều đáng nói thì lại không nói. Đó là phải chỉ ra sự vô lý của phía họ: Đường 11 đoạn chỉ là đường  phác họa ý tưởng nhất thời của một viên tướng từ thời Tưởng Giới Thạch phản động lỗi thời đã bị lãng quên, cớ sao bây giờ  nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tự xưng là cách mạng lại kế thừa ? 

Chưa rõ sau câu đối đáp "chẳng ăn nhập vào đâu" của bác Tổng Trọng nhà ta, phía chủ nhà đã phản ứng lại thế nào(?) Nhưng qua đó thấy thế hệ lãnh đạo Việt Nam ngày nay kém xa thế hệ cụ Hồ. Âu đó cũng là do thiếu cái  tâm và yếu cái tầm mà ra. Trong khi giới lãnh đạo Bắc Kinh lúc nào cũng đau đáu với tham vọng độc chiếm Biển Đông thì lãnh đạo Hà Nội dường như luôn bị động, nhầm lẫn không biết đâu là Hoàng Sa, Trường Sa, đâu là thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế, đâu là biển của ta, đâu là biển quốc tế... Trong khi Bắc Kinh khuyến khích dân chúng tham gia tuyên truyền, khích lệ ý chí "thu hồi Nam Hải",  thì Hà Nội chủ trương ngăn chặn  phong trào nhân dân phản đối hành động xâm lấn của Trung Quốc. Thử hỏi, nếu không có phong trào quần chúng thì thời gian qua vấn đề Biển Đông đã chìm đến mức nào? Nghĩ mà buồn cho đất nước ta quá!  

Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Lẫn lộn bạn/thù, tù mù chiến lược


Như thường lệ trong những ngày tháng 12 này cả nước lại tái hiện không khí thời chiến tranh chống Mĩ. Âu đó cũng là lẽ bình thường, quên sao được tội ác giặc ngoại xâm! Nhưng điều không bình thường là có một cuộc xâm lược khác không được nhắc đến, đó là những cuộc chiến lớn nhỏ do Trung Quốc gây ra từ biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc và ngoài Biển Đông kể từ sau khi "Mĩ cút, ngụy nhào" đến nay vẫn chưa dứt. Người Việt Nam bình thường ai cũng nhận thấy điều vô lý này. Song điều không bình thường là ai cũng im lặng hoặc nếu có ai thắc mắc, sẽ được trả lời rằng đó là sách lược mềm dẻo, khôn khéo của ta! 
 
Dòng chữ trên một bia tưởng niệm chiến tranh biên giới bị đục bỏ
Vậy ra, đối với người Việt Nam, có hai loại chiến tranh xâm lược(?). Chiến tranh do Pháp, Mĩ gây ra thì phải ghi xương khắc cốt và tuyên truyền lên án công khai. Nhưng chiến tranh do người Trung Quốc gây ra thì phải cố mà quên đi, thậm chí  mấy cái  bia tưởng niệm trót dựng lên  ở Lạng Sơn cũng phải đục bỏ phi tang (ảnh bên); nếu thấy tàu Trung Quốc xâm lấn biển đảo, ức hiếp dân chài ta thì gọi là "tàu lạ", nó càng ức hiếp, ta càng bày tỏ lòng biết ơn "bạn" ở cấp cao hơn... Chỉ khổ thân những người lính đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh chống quân bành trướng chưa được chính thức vinh danh như các đồng đội chống Pháp chống Mĩ của họ. 
 
Nếu nói rằng đó là sách lược mềm mỏng, khôn khéo thì thật trớ trêu!  Vẫn biết, vì nhiều lý do, Việt Nam không nên chủ trương đối đầu với Trung Quốc, và sách lược mền dẻo, khôn khéo là rất cần thiết. Vẫn biết phải ưu tiên duy trì hòa bình, nhất là với một đất nước đã mất quá nhiều thời gian cho chiến tranh như Việt Nam. Nhưng độc lập và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia phải là mục tiêu cao nhất và không thể nhân nhượng. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả của quá trình vận dụng sách lược trong quan hệ Việt-Trung đến nay thấy trái ngược với mong đợi. Đó là lãnh thổ bị gậm nhấm, chủ quyền biển đảo bị xâm chiếm gần hết trong khi quan hệ hai nước vẫn luôn trong trạng thái căng thẳng, nguy cơ chiến tranh nóng có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Vì sao vậy?

Để trả lời câu hỏi trên, trước hết hãy suy ngẫm về điều này: Tại sao Việt Nam phải đánh nhau liên tục với các "đế quốc to", hết họa đế quốc lại rước họa láng giềng bành trướng ? Có một cách giải thích đã trở thành cửa miệng của người Việt Nam: Vì nước ta giàu đẹp, và vì nước ta nằm ở vị trí địa chính trị quan trong..., nên thường xuyên bị các cường quốc tranh giành hoặc lợi dụng!. Cách giải thích này không sai, nhưng chỉ đúng một phần. Về lý do giàu đẹp, đến nay chính người Việt Nam khi có dịp tiếp xúc với thế giới và biết người biết ta hơn đã  không còn tin như vây. Về lý do bị tranh giành, lợi dụng, thì trước hết hãy xem lại sách lược bạn/thù của ta có gì chưa ổn (?) Phải chăng lý do chính là ở chỗ, người Việt Nam  tự vận vào mình một vai trò đáng ra không nên có, đó là đứng trên tuyến đầu chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời quá trung thành với ông bạn láng giềng cùng ý thức hệ cộng sản?  Hãy xem người Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia,  Mã Lai và nhiều dân tộc khác có cùng cảnh ngộ trong khu vực đã không làm như vậy, và họ đã sớm có hòa bình để phát triển vượt xa Việt Nam vốn từ một mặt bằng như nhau sau Thế chiến thứ Hai.  Phải chăng nếu Việt Nam cũng có cách tiếp cận thực tế như các nước láng giềng thì chắn chắn đã có thể phát huy vị thế địa chiến lược một cách có lợi hơn cho mình?. Có thể có ý kiến rằng Việt Nam có đặc thù khác với các nước khu vực, đó là quá khứ Bắc thuộc. Nhưng trong cái rủi đã có cái may, đó là 100 năm Pháp thuộc ít nhiều đã có tác dụng đưa Việt Nam ra khỏi địa vị phiên thuộc của Vương Triều. Nền độc lập giành được sau Cách mạng tháng 8 năm1945 là một cơ hội lớn để vĩnh viễn thoát khỏi vị thế phiên thuộc đó. Nhưng cơ hội đó đã không được tận dụng, và Việt Nam một lần nữa lại rơi vào quỹ đạo Bắc thuộc dưới những chiêu bài mới . 

Đây là một câu chuyện dài mà chỉ lịch sử mới có quyền phán xét. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là, không phải giới lãnh đạo Việt Nam không nhận ra điều này, có lẽ rõ nhất là thời kỳ sau giải phóng miền Nam và đã được đúc kết bằng phương châm " Việt Nam sẵn sàng  làm bạn với tất cả" từ Đại hội Đảng lần thứ VI. Song, đáng tiếc là phương châm đó đã không được thực hiện đầy đủ trong suốt quá trình về sau, thậm chí có những thời kỳ đi "chệch hướng". Nguyên nhân chính là do ý thức hệ "vừa là đồng chí vừa là anh em" đã khiến một bộ phận giới lãnh đạo thiếu kiên định với phương châm và mục tiêu đã đề ra. Sự kiện sai lầm mang tính quyết định là thỏa hiệp Thành Đô năm 1990. Từ đó đến nay Việt Nam chưa bao giờ lấy lại được thế cân bằng cần thiết, miệng nói "sẵn sàng làm bạn với tất cả", nhưng thực tế lại nghiêng về phía ông bạn láng giềng. Mặc dù nhiều phen bị ông bạn xâm hại vẫn cam chịu. Quan hệ với Mĩ và ASEAN không được thực sự coi trọng đúng mức. Chơi với họ nhưng luôn dè dặt, nghi ng. Điều này được thể hiện khá rõ trong những phát ngôn của nhiều nhân vật lãnh đạo chính trị, quân sự và  học thuật trong thời gian gần đây. Mới đây có một vị Đại tá, Phó Giáo sư tên là Trần Đăng Thanh khi lên lớp trước hàng trăm cán bộ lãnh đạo các trường đại học tại Hà Nội đã đưa ra cách nhận định, đánh giá về bạn/thù thật rối rắm như sau:
“… Các đồng chí nhớ người Mĩ ... nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha.” 
“...Đối với Trung Quốc hai điều không được quên”:“ họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa” .
Suốt mấy ngày qua dân mạng phê phán, thậm chí chửi bới ông này dữ quá. Nhưng suy cho cùng ông ta đã thể hiện đúng thực trạng tình hình nhận thức của giới Lãnh đạo và lý luận đất nước trong thời kỳ "hậu đổi mới". Đó là tình trạng lúng túng về đường lối chủ trương chính sách, nhầm lẫn trong việc lựa chọn bạn/thù trước bối cảnh tình hình biến động mau chóng tại khu vực và thế giới. Còn nhớ khi tiếp xúc cử tri Quận Ba Đình ngày 1/10/2011, người đứng đầu của Đảng đã từng đưa ra cách đánh giá về vấn đề tranh chấp Biển Đông như sau:
Nói Biển Đông không phải chỉ là Biển Đông. Nói Biển Đông không phải quan hệ ta với Trung Quốc. Nói Biển Đông không phải toàn bộ vấn đề Biển đông. Nó chỉ có một cái chỗ đảo Hoàng Sa với lại… quần đảo Hoàng Sa với lại chỗ quần đảo Trường Sa ấy … và cái ranh giới thềm lục địa theo công ước luật biển quốc tế...”.   

Nói vậy có nghĩa Biển Đông nào có quan trọng gì và nó là vấn đề của người khác chứ không phải của Việt Nam. Vậy chẳng trách  đối với những trường hợp phát ngôn nhu ngộ khác được ghi nhận từ các cấp trong mấy năm gần đây. Ví dmột ông Viện trưởng Mác-Lê lập luận rằng trong quá khứ ông cha ta mỗi lần đánh thắng xâm lược Phương Bắc đều trở lại triều cống ...cớ sao bây giờ lại đòi chống Trung Quốc(?) và một ông Phó ban Biên giới đánh giá hành động tàu Trung Quốc cắt cáp tàu dầu khí Bình Minh II của Việt Nam hồi năm ngoái là "thương cho roi cho vọt..." (!) Vân vân và vân vân.... Tất cả cho thấy điều gì nếu không phải là tình trạng thiếu nhất quán trong việc nhận định đánh giá tình hình, là sự lẫn lộn bạn/thù, tù mù chiến lược? Không phải họ "không thuộc bài"  mà vì bài bản nó như vậy!

Phải chăng đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những việc làm khó hiểu gây bức xúc trong dư luận cả nước gần đây? Đó là việc mất cảnh giác khi cho "bạn" thuê đất rừng đu nguồn và đất canh tác  dọc đường biên, đưa hàng nghìn công nhân vào khai thác bo-xit trên Tây Nguyên, du nhập, lưu hành tràn lan văn hóa phẩm cũng như hàng hóa các loại từ Trung Quốc bất chấp nguyên tắc có đi có lại, v.v...Chủ trương đàn áp không phân biệt các cuộc biểu tình phản đối hành động xâm lấn của Trung Quốc trên Biển Đông cũng là một biểu hiện. Những việc làm đó, dù cố tình hay vô ý thức, đã và đang gây bức xúc và đánh mất nốt chút lòng tin còn sót lại của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Chỉ kẻ thù được lợi và đắc chí, nhưng chúng không vì thế mà dừng lại./.
 

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012

Khi công tác quản lý phố phường như quản lý làng xã

Suốt đêm qua và cả ngày hôm nay mất điện. Không nét, không TV, di động hết pin không sạc được, đọc xong mấy tờ báo giấy đành ra phố. Vừa bước ra cửa gặp ngay một công trường với hàng chục công nhân  đang tháo nắp cống, thiết bị dụng cụ để bừa bộn chắn hết một đoạn phố . Hình như họ đang lắp đặt đường giây cáp điện. Lại điện! Đúng là điên nặng điện ! Nhưng tội nghiệp cho họ, ban ngày phố quá đông không thi công được họ phải làm đêm. Nhiều đêm trước họ đã làm như vậy. Trong đêm thanh tịnh tiếng máy ầm ì nhức óc, chốc chốc lại ầm lên một tiếng như thời  bom B 52 oanh tạc thủ đô khiến nhiều người tỉnh giấc. Cũng tội nghiệp cho các cụ già khi đã tỉnh giấc thì khó mà ngủ lại được, đành mở mắt  chờ sáng .

Từ ngày có tuyến phố mới được đặt tên Tô Hiệu này, tuy chỉ gần mười năm nhưng đã mấy chục lần người dân chứng kiến cảnh đào bới, khi thì giữa lòng đường , khi thì bên lề đường, khi thì trên vỉ hè, hết bên trái sang bên phải ...Ừ thì phải có lý do gì đó người ta mới đào bới!. Nhưng thực sự không thể hiểu tại sao người ta đào lên lấp lại quá nhiều lần lãng phí công của như vậy ? Người bảo vì đó là lề lối làm việc không khoa học, kẻ bảo đơn giản là vì dốt, người khác quả quyết rằng đó là một trong những cách để rút "tiền chùa"! Có dự án là có tiền mà! 

Góc phố Tô Hiệu và Làng Quốc tế Thăng Long
Định  bụng thoát ra khỏi đoạn đường ồn ào bụi bậm để đến công viên Nghĩa Đô cho thoáng... Nhưng không phải dễ ! Hai  bên vỉa hè chặt cứng xe máy. Các hàng quán cố tình dùng xe máy và chậu kiểng để chắn người qua lại phần vĩa hè trước cửa hàng của họ. Phần đường tiếp giáp vỉa hè thì ô tô đỗ san sát. Vậy nên người đi bộ không có cách nào khác phải bước xuống lòng đường, đúng hơn là đi giữa đường, nhưng không được "thênh thang ta bước" như thời  Tố Hữu đâu nhé, trái lại, luôn  nơm nớp lo sợ bị xe tông vào người từ bốn phía . Phải mất quãng 45 phút để thoát khỏi đoạn đường không đầy 300 mét. Ra đến công viên giờ này cũng đông nghịt người. Không khí cũng rất nặng mùi nước hồ bị ô nhiễm quyện với mùi của mấy quán nhậu sát rào công viên tỏa ra . Thôi thì, dù sao cũng còn một nơi mà ở đó người ta có thể đi bộ không sợ bị xe cộ tông vào. đó chính là công viên !     

Không muốn nghĩ ngợi cho đỡ mệt óc. Nhưng rồi cũng phải nghĩ: Phải chăng khu phố mới hình thành này của Thủ đô Hà Nội mở rộng chính là một hình mẫu phát triển kiểu Việt Nam? Ai bảo kinh tế Việt Nam đang chết thì hãy đến phố Tô Hiệu, Quận Cầu Giấy, Hà Nội sẽ thấy nó không bao giờ chết, thậm chí còn rất sinh động nữa kia!  Này nhé, phố phường rất đông đúc tấp nập, nhà dân hai bên phố và các ngõ, ngách đều biến thành cửa hàng; quán nhậu, cà fê đèn sáng, đèn mờ... Chúng mọc ra nhanh hơn cả nấm rừng sau cơn mưa. Dân lao động tứ xứ đổ về đây đông vô kể. Họ làm đủ thứ nghề,  từ nhân viên bán hàng, tiếp thị, hàng rong đến đánh giầy, thu mua đồng nát, v.v...Mọi góc phố, lề đường đến ngõ, ngách đều có thể biến thành nơi hành nghề gì đó, chợ cóc mọc lên tại bất cứ nơi nào có thể .... Tất nhiên cũng có những chú bảo vệ mặc đồng phục đứng ngồi la liệt trước các hàng quán dưới bóng đèn xanh đỏ nấp nháy đủ kiểu thật vui mắt. Đây đó thấp thoáng bóng các cô váy ngắn chân dài mắt xanh mỏ đỏ lượn phố trông như Hà Nôi thời Tây hay Sài Gòn thời Mĩ vậy!

4 căn biêt thự đang được xây chen lán vỉa hè tại rìa Làng Quốc tế Thăng Long
 Điều đáng nói là mật độ dân số tại khu vực này quá cao so với cơ sở hạ tầng, giao thông, dịch vụ và môi trường sống, đặc biệt thiếu trầm trọng các cơ sở công cộng như phòng họp, thư viện, nhà trẻ, sân chơi , v.v... Nhưng không hiểu vì lý do gì, chính quyền vẫn cho phép các dự án xây chen nhà ở tại một vài lô đất kẹt hiếm hoi còn sót lại trong khu vực? Trong số này có 4 căn biệt thự sắp hoàn thành bên mép Làng Quốc tế Thăng Long (ảnh trên) và đang định xây một dãy nhà 5 tầng liền kề chạy dài khoảng 400mét giữa Làng này và Phố Tô Hiệu. Nhân dân kháo nhau rằng dãy nhà này nếu được tiến hành sẽ như một bức tường "kỳ quan" của ngành xây dựng Hà Nội. Điều khó hiểu là, trong lúc thị trường bất động sản Hà Nội ế ẩm không có người mua, nhưng vẫn có một công ty tên là INDECO rất sốt sắng phối hợp cùng các cơ quan Phường, Quận trong một dự án nhà ở theo phương thức "xã hội hóa". Liệu nhà đó để bán cho ai và ai là người có lợi mà họ bất chấp lợi ich lâu dài của cộng đồng?. Qua các cuộc tiếp dân cho thấy kể cả một số vị quan chức cũng quan niệm rằng  hễ chỗ nào còn đất trống đều nên xây nhà ở hoặc giao cho các công ty kinh doanh để thu tiền phục vụ các công trình  "xã hội hóa" vốn là phương thức mơ hồ khó kiếm soát. Có vị còn viện dẫn tình trạng nhà cửa chen chúc tại các làng cũ trong Quận để nói rằng dân ở khu phố mới này còn sướng chán!. Thì ra họ vẫn mang quan niệm quản lý làng xã vào quản lý đô thị. Với đà này, e rằng chẳng mấy chốc khu phố mới xung quanh Phố Tô Hiệu và Làng Quốc tế Thăng Long  sẽ biến thành một ngôi làng thực thụ giữa Thủ đô ngàn năm văn hiến./.    


Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

Vì sao mãi day dứt?

Đó là câu hỏi có thể xuất hiện trong đầu mỗi người khi đọc bài viết mới đây của blogger Nguyễn Thông (nguyên văn dưới đây). Đúng như tác giả nhận xét "Chỉ có gỗ đá mới không biết trăn trở". Nhưng trớ trêu thay, ngày nay hầu hết người Việt Nam bằng da bằng thịt có ăn học và đang hoặc đã có chức quyền lại không hề  trăn trở hoặc cố tỏ ra không trăn trở theo kiểu "mũ nỉ che tai"... Đó là một nghịch lý thật to của đất nước này-(Bách Việt)

 

Sao không thể tái sinh Hội nghị Diên Hồng?

Người xưa nói "Tổ quốc hưng vong, thất phu hữu trách", vậy nên làm người lúc này chỉ có là gỗ đá mới không biết trăn trở, lo lắng. Với cương vị một công dân bình thường có nghĩa vụ đối với đất nước, tôi cũng muốn đem cái trí lực hèn mọn của mình góp vào việc chung.

Người xưa cũng nói "Ôn cố tri tân" nhắc cái cũ để biết cái mới, trước hết tôi xin nhắc lại một chuyện cũ:

Chuyện rằng, năm 1282 vua nhà Nguyên sai Sài Thung đưa Trần Di Ái (được phong làm An Nam quốc vương) về nước bị quân dân Đại Việt ta đánh cho tan tác, Sài Thung trúng tên mù mắt chạy về không còn mảnh giáp. Vua Nguyên giận lắm, năm 1284 cử Thoát Hoan đốc binh rầm rộ kéo sang, khí thế ngất trời, mạnh như chẻ tre. Nhiều đại thần xin hàng, chầu cống; riêng chỉ hai vị Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư quyết cầm quân chặn giặc. Nhưng giặc mạnh quá, vua Trần Nhân Tông lo quân ta không địch nổi, cứ phân vân. Tuy nhiên vốn là vị hoàng đế sáng suốt, ngài và Thượng hoàng Trần Thánh Tông quyết định triệu họp các phụ lão trong cả nước để trưng cầu dân ý, bàn việc nước, xin ý kiến về chủ trương hòa hay chiến, để dân quyết việc hệ trọng nước nhà. Hội nghị được tổ chức tại điện Diên Hồng nên sau này sử sách gọi là Hội nghị Diên Hồng, được đánh giá như là hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta, và cho đến nay chưa
có thêm sự kiện nào như vậy. Thời ấy các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của chính quyền đến người dân. Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, quyển 5) của nhà sử học Ngô Sĩ Liên chép "Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói "đánh", muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng". Ông cũng lý giải: "Giặc Hồ vào cướp nước là nạn lớn nhất của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn há lại không có kế sách gì chống giặc mà phải đợi đến ban yến hỏi kế ở các phụ lão hay sao? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ của dân chúng, để dân chúng nghe theo lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay vậy".
Về chuyện này, nhà sử học Lệ thần Trần Trọng Kim cũng biên lại: "Nhân Tông thấy vậy lập tức cho triệu cả những bô lão trong dân gian, hội tại điện Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân gian một lòng như vậy, cũng quyết ý kháng cự" (Việt Nam sử lược, quyển 1, phần nhà Trần).

Nhắc lại chuyện xưa tích cũ để cùng nhau tỏ rằng thời nào cũng cần có bậc minh quân. Làm người chèo chống quốc gia phải sáng suốt, bản lĩnh, tin dân, đừng nghe theo bọn gian thần, nịnh thần, hèn thần. Trong triều đình nhà Trần khi đó thiếu chi kẻ ngồi chót vót, quyền cao chức trọng, thân thích ruột thịt của vua, như thái úy Trần Nhật Hiệu, Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, Trần Di Ái (chú ruột vua)... chỉ một mực đầu hàng, chấp nhận khom lưng uốn gối. Nhưng đức Thánh Tông, Nhân Tông đã lấy dân-nước làm trọng. Và điều hết sức đáng khâm phục là các vị ấy cực kỳ tin tưởng vào dân. Trí tuệ nhân dân lúc bấy giờ được thể hiện ở các bô lão. Đại thần xin hàng, nhà vua phân vân. Bô lão quyết đánh, nhà vua theo ngay. Rõ ràng không phải lúc nào quan chức cũng là người đại diện cho đất nước. Ấp a ấp úng trước dã tâm kẻ thù, làm sao những kẻ đó quyết chiến như dân được.

Ngày xưa là bô lão, còn nay là những bậc nhân sĩ, trí thức. Họ là hiền tài, "nguyên khí quốc gia". Họ đại diện cho nhân dân. Không coi trọng họ tức là xem nhẹ ý chí, tinh thần, sự sáng suốt của nhân dân. Giữ nước mà không cùng đi với dân thì có bao giờ thành đạt. Giờ đây giặc Tàu đang lăm le bờ cõi, giở mọi quỷ kế hòng cướp thêm biển đảo của ta, từ ông chủ tịch nước đến kẻ thứ dân đều biết rõ. Vậy mà chẳng hiểu sao giữa nhà cầm quyền với dân chưa đồng ý đồng lòng, chưa chung tiếng nói, chưa chung hành động. Tại sao không giải tỏa bất đồng, tổ chức một cuộc gặp giữa những người lãnh đạo cao nhất với những nhân sĩ trí thức đã cùng đi dân trong các cuộc biểu tình chống Trung cộng hoặc một số sự kiện nổi cộm vừa qua. Hãy phát huy tinh thần thân dân, trọng nhân sĩ trí thức của cụ Hồ, nhất là thời kỳ sau cách mạng tháng tám và kháng chiến chống Pháp. Hãy biết lắng nghe, trao đổi, tiếp thụ; hãy thực sự cầu thị, đừng vội vàng quy kết dân khi họ trái với mình.

Tôi nghĩ, có thể lẩn thẩn chăng, sao các vị tứ trụ triều đình hiện nay, hoặc ông tổng bí thư, ông chủ tịch nước- những người nghe đồn được coi là gần dân, trong khi chưa thể tổ chức được cuộc hội nghị Diên Hồng quy mô thời hiện đại, tại sao không tạo nên một Diên Hồng nho nhỏ, mà bô lão chính là những nhân vật đang có nhiều ý kiến, quan điểm, thái độ, hành động gần gũi với dân, trái tim chung nhịp với đại đa số nhân dân. Họ là ai? Tôi cho rằng những con người mang cái tên sau đây rất đáng có mặt trong cái Diên Hồng mini mà tôi mong ước đó, rất nhiều người đã trải qua 2-3 mùa kháng chiến, vào sinh ra tử, từng giữ trọng trách trong bộ máy cầm quyền, từng là niềm tự hào của bao thế hệ, từng đóng góp nhiều sức lực, trí tuệ, tình cảm... vào công cuộc đấu tranh, lao động của dân tộc: Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Quốc Thước, Đồng Sỹ Nguyên, Trần Quốc Thuận, Trương Trọng Nghĩa, Nguyễn Đình Đầu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Lê Hiếu Đằng, Tương Lai, Lưu Trọng Văn, Nhật Tuấn, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Phạm Xuân Nguyên, Huỳnh Ngọc Chênh, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Thế Thanh, Lê Phú Khải , Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Huệ Chi, Dương Trung Quốc, Bùi Minh Quốc, Phạm Toàn, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Nhị, Tống Văn Công, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Quang Lập, Tô Văn Trường, Phạm Đình Trọng, Bùi Văn Bồng, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Trọng Huấn, Nguyễn Trung, Đào Tiến Thi, Trần Mạnh Hảo, Võ Thị Hảo, Thái Kế Toại, Nguyễn Duy, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Minh Hiền, Thùy Linh, Đỗ Minh Tuấn, Thanh Thảo, Cù Huy Hà Vũ, Lê Hiền Đức... Nhiều lắm, nhiều lắm.

Một cuộc gặp Diên Hồng như thế sẽ đi vào lịch sử. Giải tỏa những vướng mắc, cản trở. Không có lý gì mà ai cũng nói cũng tự nhận mình yêu nước yêu dân mà rốt cục lại trái nhau, đối lập nhau, thậm chí thù hằn bắt bớ triệt hạ nhau. "Nhiễu điều phủ lấy giá gương", "gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau". Khi đã thống nhất được ý chí và hành động, cả nước một lòng, không kẻ thù nào có thể lấn át được chúng ta.

17.12.2012
Nguyễn Thông


Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

Khi học giả Trung Quốc nói thật(*)

(*) Mình có một blog từ thời sơ khai nhưng số phận hẩm hiu đã phải mấy lần "chuyển nhà" từ YahooPlus rồi Yahoo Vietnam... Giờ  YahooVietnam sắp sập, đành chọn lọc một số bài vỡ đưa về lưu trong Bách Việt. Riêng bài viết này xuất bản cuối năm 2010 nhưng vẫn còn nguyên giá trị thời sự đến ngày hôm nay khi âm mưu  độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh đang trong giai đoạn nước rút, xin mạn phép đăng lại để bạn đọc tham khảo. (Bách Việt)

Bản đồ minh họa các "chư hầu" thời  Vương Tiều 
Trước tình hình tranh chấp Biển Đông ngày càng căng thẳng, tiếp theo cuộc Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ nhất (năm 2009), cuộc Hội thảo lần thứ hai có tên “Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển Khu vực” do Học viện Ngoại Giao và Hội luật gia Viêt Nam đứng ra tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 10 đến 12/11/2010. Hội thảo lần này được dư luận trong và ngoài nước rất quan tâm không phải  vì nó diễn ra ngay sau Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 27 mà vì tình hình Biển Đông đang nóng lên trước hành đồng xâm lấn biển đảo trắng trợn của phía Trung Quốc. 

Bài viết ngắn này không nhằm trình bày về cuộc hội thảo mà chỉ nêu lên một hiện tượng cho thấy người Trung Quốc đang đi theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan rất nguy hiểm. Không ai khác mà chính bộ máy cầm quyền nước này đã và đang cố tình "hâm nóng" tinh thần dân tộc cực đoan Đại Hán đã có từ thời các Hán đế, trong đó Hán tộc được coi là "con trời" trong khi tất cả các dân tộc khác chỉ là man di mọi rợ, các nước láng giềng chỉ là "phiên thuộc" của Vương Triều . Cách tư duy này thực sự  nguy hiểm  không kém gì tư tưởng "đại Đức" của phát xít Hit-le thời kỳ trước Thế chiến II , và nếu không bị ngăn chặn rất có thể sẽ đưa thế giới vào một cuộc chiến tranh mới.  
 
Ngay trong ngày đầu của Hội thảo, dư luận đã ngỡ ngàng trước những cách lập luận thiên lệch không giống ai của các đại biểu Trung Quốc. Một vị tiến sĩ tên là Vương Hàn Lĩnh (của Viên Luật pháp Quốc tế thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc) đã trâng tráo tuyên bố : “Nên nhớ rằng cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Cũng chính là  vị tiến sĩ này trước đó đã giảng giải một cách đầy tự tin rằng  “Anh có thể tự lựa chọn cách giải quyết tranh chấp mà anh cho là tốt nhất, có thể phân định được lãnh hải bằng cách này hay cách khác, nhưng chắc chắn là anh không thể tự lựa chọn được hàng xóm. Hai nước Trung Quốc và Việt Nam mãi mãi là hàng xóm, qua biết bao thế hệ và còn tiếp tục với rất nhiều thế hệ nữa”....và không quên đe dọa : “Nếu không chọn cách giải quyết như tôi vừa nêu, các anh sẽ phải hứng chịu các xung đột bằng vũ lực, hoặc thậm chí chiến tranh. Điều này không hề tốt cho tương lai”. (xem thêm tại www.tuanvietnamnet ngày 11/11/2010).
           
Thì ra, lâu nay thế giới dường như đã quên cơn ác mộng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán. Nhân dân Việt Nam cũng đã phần nào bỏ qua nỗi uất hận trong quá khứ , kể cả cuộc chiến tranh biên giới 1979 với tâm trạng bán tín bán nghi về sự "cải tà quy chính" của ông bạn láng giềng đang chuyển hóa từ chế độ phong kiến lạc hậu sang thế giới đại đồng (!) trong khi cả thế giới quen nghĩ về Trung Quốc như một nước đông dân kém phát triển như con "hổ giấy" vậy!. Ít ai tin rằng cái quốc gia đông dân và nghèo đói này không lúc nào quên ấp ủ giấc mộng bá chủ đã có từ hàng ngàn năm trước. Giấc mộng đó mạnh đến nỗi nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình trước khi chết đã phải căn dặn con cháu phải biết "ẩn minh chờ thời", tức là  đừng quá nóng vội mà bộc lộ dã tâm quá sớm sẽ làm hỏng mưu đồ bá vương!  

Tò mò trước những lập luận  cuồng tín của các nhà nghiên cứu Trung Quốc, tôi  thử tìm trên mạng thì thấy  tin nói về kết quả của một cuộc khảo sát  vừa mới được hãng thông tấn  Mỹ- Global Times thực hiện, trong đó lấy ý kiến của hơn 1.300 người dân tại 6 tỉnh thành lớn của Trung Quốc là Bắc Kinh, Quảng Châu, Thành Đô, Trường Sa, Tây An và Thẩm Dương về giải pháp cho vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Kết quả khảo sát cho thấy, trong hơn 90% người tham gia trả lời, trong đó 39,8% cho rằng phải chiến đấu để khẳng định chủ quyền; 35,3% cho rằng nên đặt vấn đề tranh chấp chủ quyền qua một bên và cùng nhau phát triển trong khi vẫn tiếp tục lên tiếng khẳng định chủ quyền; chỉ có 18,3% đồng ý xác định lại biên giới lãnh hải cùng với các quốc gia hữu quan. Cuộc thăm dò cũng cho thấy đa số người dân Trung Quốc xếp Việt Nam là nước kẻ thù số 3 cần đề phòng sau Mỹ và Nhật Bản!

Khi được hỏi lý do tại sao, một số người  cho rằng có thể việc giáo dục lịch sử cũng như tình trạng kiểm soát thông tin tại Trung Quốc đã dẫn đến nhận xét trên…Vì theo họ, không ít người dân Trung Quốc khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ đã được giáo dục rằng chủ quyền của hai quần đảo Nam Sa và Tây Sa (Trường Sa và Hoàng Sa) là thuộc về Trung Quốc, nhưng bị Việt Nam và các nước khác chiếm đoạt (!?).

Bình luận về kết quả khảo sát nói trên, Tiến sĩ  June Teufel Dreyer, Giảng viên Khoa học Chính Trị của trường đại học Miami  cho rằng "Sách của Trung Quốc đã phá hỏng lịch sử một cách nặng nề bởi vì Việt Nam đang nắm giữ Hoàng Sa vào thời điểm mà Trung Quốc dùng bạo lực để chiếm lấy nó vào khoảng những năm 1974 – 1975. Vì vậy, tôi không hiểu vì sao mà người ta có thể nói rằng các quần đảo trên là của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều người đã đọc sách giáo khoa của Trung Quốc thì nói rằng có nhiều điều không hẳn là đúng sự thật".      


Tiến sĩ Dreyer cũng nhận xét: “Mặc dù mọi cuộc khảo sát đều mang tính tương đối, nhưng trước con số khá cao mang tính thể hiện sự đồng lòng của người dân Trung Quốc đối với các quyết định của chính quyền khiến người ta không khỏi đặt câu hỏi về sự thành công của chính sách giáo dục và sự kiểm soát thông tin hữu hiệu của Bắc Kinh trong mục tiêu phục vụ cho chính trị. Vấn đề ở chỗ, hy sinh dân trí để đạt được mục tiêu chính trị lại không phải là lựa chọn của một xã hội dân chủ và văn minh”.
          
Thì ra Tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh và các học giả Trung Quốc đã nói rất thật về tình trạng chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong xã hội Trung Quốc đương đại. May thay sự nói thật của họ dù sao cũng giúp cảnh báo thế giới về nguy cơ của  chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán đang đến gần. 
 

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Vài suy nghĩ sau tuyên bố của Đô đôc Samuel Locklear


Đài VOA ngày 7/12/2012 dẫn nguồn tin của Bộ Quốc Phòng Mĩ  (US Department of Defense PR/ Freebeacon.com) đưa tin về tuyên bố báo chí của Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Mĩ ngày 6/12 với tiêu đ "Mỹ từ chối hỗ trợ đồng minh Châu Á trong tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc".Tiếp ngay bên dưới là lời dẫn đề nêu rõ:      
Đô đốc Samuel Locklear 
"Hoa Kỳ không hỗ trợ các đồng minh và nước bạn quan trọng trong khu vực Châu Á có dính líu tới các tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc giữa bối cảnh các hành động gây hấn của Bắc Kinh ở Biển Đông đang leo thang" .
(Xem tin đầy đủ tại đây http://www.voatiengviet.com/content/my-tu-cho-ho-tro-dong-minh-chau-a-trong-tranh-chap-bien-dong-voi-trung-quoc/1560465.html

Bản tin thật ngắn gọn, nhưng có lẽ đã cho ta một lời kết về câu chuyện rất dài mà cả thế giới đã chăm chú theo dõi bấy lâu nay -.đó là chờ xem Mĩ sẽ hành động như thế nào trước âm mưu và hành động xâm lược  trắng trợn của nước Trung Quốc "đang trỗi dậy" đối với các quốc gia láng giềng nhỏ yếu hơn xung quanh. Trước mối hiểm họa của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, các quốc gia khu vực dù không muốn vẫn phải chấp nhận sự trở lại của Mĩ và mong đợi cường quốc số I này  đóng vai trò như một hiệp sĩ đứng ra bảo vệ cho họ. Về phần mình nước Mĩ đường như chợt nhận ra một cơ hôi để kèm chế đối thủ, nhưng đồng thời cũng nhận ra những hạn chế của bản thân, nhất là trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và những cam kết phiền toái khác trên toàn cầu. Cũng như xu hướng chung của khu vực, người Việt Nam trong và ngoài nước, dân thường và chính khách, ít nhiều đã  tin rằng Mĩ sẽ không khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Thậm chí không ít  người tin rằng Mĩ sẽ nhân cơ hội này giáng cho Bắc Kinh một đòn chí tử(!?) Tuy nhiên diễn biến tình hình ngày càng cho thấy không như vậy. Trước việc Mĩ đã không can thiệp gì trong vụ đụng độ Scarbourough giữa  Philipin-Trung Quốc, rồi vụ Senkaku giữa Nhật-Trung, dư luận đã bắt đầu nghi ngờ về vai trò hiệp sĩ của nước Mĩ. Mới đây giới quan sát đã bàn tán về hiện tượng "trầm lặng" của Tổng thống Obama tại Hội nghị cấp Cao Đông Á (EAS) tại Pnom Pênh tháng 11  trong khi phía Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang ngược lấn lướt tại Biển Đông. Và bây giờ là lời tuyên bố của vị Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương.

Phải chăng cái gì đến đã đến. Lời tuyên bố mới này có thể được hiểu như một tuyên bố chính thức về lập trường của nước Mĩ, đó là  đứng ngoài cuộc tranh chấp chấp chủ quyền biển đảo giữa các quốc gia nhỏ yếu hơn với cường quốc Trung Quốc. Nói cách khác, Mĩ sẽ khoanh tay đứng nhìn các thế lực bành trướng Trung Quốc tác oai tác quái tại Biển Đông . Có lẽ chỉ còn một điều chưa hoàn toàn rõ ràng là Mĩ sẽ làm gì nếu một ngày kia tàu bè của bản thân nước Mĩ sẽ không được tự do qua lại vùng Biển Đông như họ đã từng được làm như vậy suốt thế kỷ qua. Rất có thể câu chuyện riêng tư này cũng sẽ được Bắc Kinh yêu cầu "thỏa thuận song phương Trung -Mĩ !"

Những ai có chút am hiểu về nước Mĩ, đặc biệt qua những chặng đường biến thiên trong lịch sử quan Mĩ-Trung, nhất là thời kỳ sắp kết thúc chiến tranh Việt Nam, sẽ không mấy ngạc nhiên trước kết cục nói trên.  Còn nhớ người Mĩ đã từng bỏ rơi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và để mất quần đảo Hoàng Sa như thế nào trong thời gian trước biến cố tháng 4/1975. Thực ra sự câu kết Mĩ -Trung đã bắt đầu từ cuộc gặp bí mật Thượng Hải 1972, chứ không phải đợi đến sau khi kết thức chiến tranh lạnh.  Nếu hiểu được sự thật này sẽ thấy rằng lời tuyên bố của Tư lệnh Thái Bình Dương mới đây chỉ là một sự tiếp nối có lo-gíc mà thôi. Đó là một vấn đề có tính chiến lược của nước Mĩ trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mà trong đó nước Mĩ không sớm thì muộn buộc phải chia sẻ quyền lực với Trung Quốc.
                  
Là người Việt Nam, chúng ta không có gì để ngạc nhiên trước kết cục nói trên. Các cường quốc dù là Mĩ hay Trung Quốc chưa bao giờ thực sự là đồng minh lâu dài của các quốc gia độc lập dân tộc, nếu có chăng chỉ là tạm thời và có điều kiện. Sự nghiệp bảo vệ độc lập và  toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào nội lực của mỗi nước. Lịch sử thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên Việt Nam cũng không thể trông chờ hoặc phụ thuộc mãi mãi vào một cường quốc. Vẫn biết vai trò Mĩ rất quan trọng, nhưng bạn bè thiết thực của Việt Nam là những nước có cùng cảnh ngộ trong khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Philipine, Hàn Quốc, ASEAN, Úc, Nga...  Nhớ lại thời đại phong kiến ít khả năng liên kết với quốc tế, người Việt Nam đã từng chiến thắng xâm lược Phương Bắc, huống chi trong thời đại toàn cầu hóa bạn bè có ở khắp nơi . Đối với Việt Nam , bí quyết thành công của mọi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm chính là lòng tự tôn, tự cường dân tộc; sức mạnh để chiến thắng kẻ thù chính là khối đoàn kết toàn dân. Nếu không ghi nhớ bài học đơn giản này, sẽ không thể tin vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. Người lãnh đạo nào không thấm nhuần bài học này thì nên từ bỏ vai trò lãnh đạo nếu không muốn bị nhân dân đào thải.

Trong việc chọn bạn/thù, Việt Nam nên học hỏi thêm bài học kinh nghiệm của Nhật bản, Hàn Quốc, chừng mực nào đó của Đài Loan và Hồng Kông. Bí quyết thành công của các nước và vùng lãnh thổ nói trên là phải giữ khoảng cách trong quan hệ với Đại lục. Bài học này cũng giải thích tại sao cùng một dân tộc, nhưng Bắc Triều Tiên mãi lạc hậu trong khi Nam Triều Tiên thì phát triển như vậy . Từ bài học này cho thấy, Việt Nam tuy không bao giờ nên chủ trương đối đầu, nhưng nhất quyết phải tách khỏi ảnh hưởng về "ý thức hệ" với  Trung Quốc. Chỉ khi nào thoát khỏi thế kèm cặp của Trung Quốc, Việt Nam mới có thể tận hưởng nguồn tri thức và khoa học-kỹ thuật tiên tiến của nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới . Và phát triển là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Nói cách khác, giữ khoảng cách thích hợp với Trung Quốc là thượng sách đối với Việt Nam. Thực tế cũng đã cho thấy trong thời kỳ 100 năm thuộc Pháp dù sao lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam đã không mất vào tay Trung Quốc. Từ sau tháng Tám 1945, quan hệ Việt-Trung càng gần gũi bao nhiêu nguy cơ mất lãnh thổ càng lớn bấy nhiêu. Hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đã nổ ra trong sự bất ngờ của Việt Nam và thế giới, qua đó biên giới phía Bắc đã bị gặm nhấm, mất quần đảo Hoàng Sa  và một phần quần đảo Trường Sa, hiện  đang có nguy cơ mất cả vùng đặc quyền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã từng có cơ hội  phát triển theo hướng hiện đại hóa ngay trong thời kỳ từ 1980- đầu những năm 2000 khi quan hệ Việt -Trung căng thẳng và lạnh nhạt. Nhưng từ khi bình thường hóa quan hệ,  máy móc cũ lỗi thời cùng hàng hóa, thiết bị kém chất lượng của Trung Quốc tràn vào bóp chết các cơ sở sản xuất hiện đại mới manh nha của Việt Nam. Đó là chưa kể những âm mưu phá hoại ngầm của ông bạn "4 tốt" từ việc chào thầu thấp để tranh giành các dự án khai thác boxit Tây Nguyên, các nhà máy nhiệt điện, chiếm dụng các vùng đất, rừng, mặt biển trọng yếu v.v...gây nhiều hậu quả và khó khăn cho phía Việt Nam.

Tóm lại, dù  trong bất cứ tình huống nào, có hay không sự can thiệp của Mĩ trong cuộc tranh chấp Biển Đông, thì Việt Nam vẫn kiên quyết đấu tranh bảo về chủ quyền biển đảo của mình vì đó không chỉ là nguồn sống mà là cửa ngõ, là tương lai sinh tồn của dân tộc. Tuyên bố mới đây của Mĩ  "không hỗ trợ đồng minh và nước bạn..." chắc chắn sẽ khuyến khích các hành động lấn chiếm ngang ngược hơn của tàu thuyền Trung Quốc trên khắp vùng Biển Đông khiến Việt Nam, Phlipin thêm điêu đứng . Nhưng tình hình mới sẽ thúc dục Việt Nam và các bên bị tác động xích lại gần nhau hơn để đối phó với Trung Quốc. Việt Nam không có cách nào khác là phải kiên định hơn nữa trong quan hệ với Trung Quốc. Đó là một thời kỳ mới với cả thách thức và cơ hội đòi hỏi Việt Nam, trước hết là giới lãnh đạo, phải thích ứng để tồn tại và phát triển. Đây là cơ hội để Việt Nam điều chỉnh lại quan hệ đồng minh, bạn/thù phù hợp với tình hình mới, đối xử ngang nhau với hai cường quốc Mĩ, Trung. Đây là thời điểm thuận tiện để Việt Nam chuyển sang một chính sách ngoại giao cởi mở, minh bạch, trong đó mọi ân, oán với các cựu thù, kể cả Mĩ và Trung Quốc, cần được giải bày nhằm đi tới cơ sở đồng thuận mới công bằng hợp lý hơn.       
       .

Thứ Tư, 5 tháng 12, 2012

Đất nước tôi (*)

 (*) Đây là tên bài "thơ tức cảnh"trên blog Trương Duy Nhat. Đọc thấy hay hay, cay cay... cóp lại xem chơi ... Không quên nhắc lại  "không nhất thiết phản ánh quan điểm của chủ blog Bách Việt !"
Không hiểu sao nghe Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói chuyện nhóm lò, lại hứng chí mần... thơ!


 
 
Đất nước tôi
Hà Tĩnh, Cần Thơ, Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản...
Người nổ súng, kẻ uống thuốc sâu, nơi biểu tình
Phụ nữ khỏa thân, cả làng để tang đòi đất
***
Đất nước tôi chưa bao giờ đau đến thế
Trấn áp nhân dân, quị lụy kẻ thù
Đảng ung thư(1)
Dân tình mất đất
***
Đất nước tôi
Như một con tàu lao dốc tuột phanh(2)
Hết Vinashin, Vinalines đến Vina đồng chí X
Hàng trăm nghìn tỷ vẫn không sai, chỉ một lời xin lỗi
***
Đất nước tôi
Đi đâu cũng nghe Đinh La Thăng, Vương Đình Huệ, Nguyễn Văn Bình, đồng chí X
Đâu cũng dựng tượng Bác Hồ
Đâu cũng muôn năm nhiệt liệt
Đảng cao cả, đảng là đạo đức văn minh
***
Đất nước tôi
Phó Thủ tướng cũng nên thầy ưu tú
Thống đốc tồi cũng thành chiến sĩ thi đua
Và một đứa ca sĩ chân dài cũng được tôn vinh là nhân vật tiên phong
***
Đất nước tôi
Cái mảnh đất mang hình dấu hỏi(3)
Từ Đinh Lý Trần Lê, Bà Triệu, Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...
Đến đồng chí X
Có bao giờ như thể hôm nay
Cả đất nước như như một chiếu hề
Đến Thủ tướng cũng bị gọi là “đồng chí X”
Chủ tịch nước mở miệng là “một bầy sâu”
Tổng Bí thư tự biến mình thành ông già nhóm bếp
Và đảng viên là một bầy sâu
***
Đất nước tôi
Bốn nghìn năm đến nay còn nhóm lửa
Nhân văn trên sự bất lực đê hèn
Đất nước tôi ơi, Việt Nam đâu phải thế
Nhưng vì sao, ơi hỡi vì sao?
_______________
- (1): ý của cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
- (2): ý của Đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc
- (3): ý của nhà báo Bùi Thanh (chẳng lẽ đất nước mang hình dấu hỏi/ để chúng mình cứ phải hỏi tại sao?)


*****

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012

Lòng tin chạm đáy chưa?

Gần đây người ta nói nhiều đến sự "chạm đáy" của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán v.v...Có nhiều người phân vân không biết lòng tin của nhân dân vào tương lai đất nước đang ở mức độ nào, đã chạm đáy chưa? Xin mạn phép lạm bàn đôi lời về câu hỏi này như sau.

Đáy và đỉnh là khái niệm dùng để so sánh tuyệt đối về mức độ, trình độ...  Cái gì có đáy thì cũng có đỉnh và ngược lại. Với phạm trù lòng tin mà nói về đỉnh và đáy thì hơi khó hình dung, nhưng không phải là không thể . Còn nhớ nhà thơ kiêm chính trị gia Tố Hữu -nguyên Ủy viên TW Đảng, Phó thủ tướng Chính phủ cách đây 1/2 thế kỷ đã từng đưa ra một đánh gía độc đáo như sau: 
"Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!" (1)

Có thể hiểu, qua đoạn thơ trên ông Tố Hữu muốn đánh giá về vị thế của đất nước trong so sánh các thời kỳ lịch sử và thế giới. Ông chọn năm1961 là đỉnh cao...là hoàn toàn có ý của ông. Đó là thời kỳ đạt nhiều thành tích trong công cuộc xây dựng kinh tế ở miền Bắc hòa bình  (chưa bị chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ) trong khi tình hình cách mạng ở miền Nam đang tiến triển rất thuận lợi (vùng giải phóng mở rộng đẩy đối phương vào thế phòng ngự bị động...). Có thể có những ý kiến khác nhau, nhưng bài thơ đó đã từng được cả nước nhiệt liệt tán thưởng. Thực tế cũng cho thấy vào thời đó nhân dân hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Và chính  lòng tin đó đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 hoàn thành sứ mệnh "thu gian sơn về một mối". Có thể nói đó cũng là thời kỳ đỉnh cao nhất của niềm tin mà nhân dân Việt Nam từng có vào tương lai của đất nước và dân tộc. Lòng tin đó như được tiếp sức bởi nhận định của  Tổng Bí thư Lê Duẩn rằng từ nay đất nước đã sạch bóng quân thù, và sẽ không kẻ thù nào dám đánh Việt Nam nữa! (2)

Tuy nhiên, dường như theo quy luật, cái gì  lên đến đỉnh cũng sẽ có ngày đi xuống.  Chỉ ít lâu sau, đã nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Tây-Nam  năm 1976, rồi chiến tranh biên giới phía Bắc năm1979 trong sự ngỡ ngàng của bản thân Việt Nam và của cả thế giới. Đó cũng là thời kỳ mà lòng tin của nhân dân vào tương lai của đất nước, cụ thể vào sự lãnh đạo của Đảng (lúc này đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam) đã bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Tuy ai ai cũng chấp hành sự phân công của Đảng và Chính phủ, vượt qua gian khổ khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, nhưng trong thâm tâm đã bắt đầu nhận ra rằng  hai cuộc chiến tranh đó không phải tự chúng nổ ra hoặc hoàn toàn do kẻ thù cố tình gây ra, mà có một phần do sự chủ quan và sai lầm trong đối sách của giới lãnh đạo đất nước thời bấy giờ. Sai lầm không chỉ diễn ra trên mặt trận quân sự và đối ngoại mà cả trong đối nội. Một trong những biểu hiện mất lòng tin rõ rệt nhất là việc hàng triệu người đã liều mạng bỏ đất nước ra đi trong nhiều năm liền . Tại sao họ phải làm thế nếu không phải vì mất lòng tin vào chính quyền mới cũng như vào tương lai của đất nước?  Ai cũng biết, nếu "thời giờ là vàng ngọc" thì Việt Nam đã mất quá nhiều cho chiến tranh, đặc biệt hai cuộc chiến tranh với hai nước láng giềng để lại những hậu quả lâu dài về sau. Đồng thời hàng loạt những sai lầm nối tiếp nhau trong đường lối kinh tế-xã hội đã khiến đất nước phải trả những cái giá quá đắt với tình trạng kinh tế trì trệ kéo dài, lạm phát phi mã để lại nhiều hậu quả chính trị-xã hội đến ngày nay chưa giải quyết được. Một khi khi lòng tin đã mất thì những thành tích thu được qua quá trình đổi mới dù  to hay nhỏ, tạm thời hay lâu dài ...đều không đủ để vực lại, huống chi công cuộc đổi mới đó đã không đi đến nơi về đến chốn.    

Lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng nói riêng và vào tương lai đất nước nói chung, cũng theo đó mà tụt dốc. Có điều là nó không đi xuống theo đường thẳng đứng mà theo hình Sin nên đỡ gây sốc và cũng dễ ru ngủ với nhiều người. Giờ đây sau từng ấy năm tháng gập ghềnh, lúc nhanh lúc chậm, thật khó để đánh giá chính xác về mức độ và tốc độ phát triển của đất nước trong tương quan so sánh khu vực và toàn cầu. Nhưng riêng về sự giảm sút lòng tin của người dân thì đã quá rõ. Có thể nói đến nay không còn người Việt Nam nào kỳ vọng trở thành  "rồng", thành  "hổ" ..."đặng sánh vai cùng các nước  năm châu" (3). khoảng cách ngày càng rộng trong tương quan so sánh lực lượng với các nước láng giềng, đặc biệt với Trung Quốc khiến nhân dân thất vọng và lo ngại. Mặc khác, có thể nói chưa bao giờ có sự cách biệt về tình cảm, mức sống và lối sống giữa cán bộ lãnh đạo và dân thường như bây giờ. Không phải lãnh đạo không biết đâu là nguyên nhân tham nhũng, nhưng đối với họ chống tham nhũng khác nào tự chống mình. Không phải lãnh đạo không biết điều gì đang đe dọa sự tồn vong của chế độ, nhưng lợi ích của họ còn quan trong hơn chế độ. Không phải lãnh đạo không biết ai là bạn ai là thù, nhưng mối quan tâm hàng đầu của họ là ai có thể giúp họ tiếp tục cầm quyền. Không phải lãnh đạo không biết hiện tượng bất tín, bất phục trong nhân dân đang chuyển từ ý nghĩ sang hành động . Đó là tình trạng kỳ cương phép nước lỏng lẻo không chỉ thể hiện trên đường phố mà đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các kế họach phát triển quốc gia. Đó là những cuộc biểu tình , khiếu kiện phản đối sự điều hành thiếu minh bạch của các cơ quan công quyền trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng v.v...Đó là phong trào yêu nước tự phát ngày càng dâng cao trước hành động xâm lược bành trướng của Trung Quốc bất chấp sự ngăn chặn, cấm đoán của chính quyền. Lãnh đạo biết tất cả nhưng có lẽ do cái tâm của họ không trong sáng hoặc do "lực bất tòng tâm", hoặc do cả hai lý do cộng lại. Đó là những gì người ta có thể quan sát được qua đợt kiểm điểm chống tham nhũng vừa qua.

Trong bối cảnh nêu trên, việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới đây gợi ra ý tưởng "nhóm lò" (4) có lẽ đã nói lên một cách đầy đủ về thực trạng mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và vào tương lai đất nước nói chung.  Để trả lời câu hỏi lòng tin chạm đáy chưa, có lẽ nên thay bằng câu hỏi  lòng tin đã tắt chưa thì rõ hơn. Câu trả lời ở đây là lòng tin đã và đang tắt! Vì tắt rồi nên người đứng đầu của Đảng  mới đặt vấn đề "nhóm lại" chứ! Hình ảnh một ông già lọ mọ nhóm lò khiến chúng ta thấy ái ngại, nhất là khi không còn mấy ai quan tâm đến ngọn lửa đó nữa trong khi không ít kẻ đang lăm le dập tắt đóm lửa trên tay ông./.            

Ghi chú
1. Trích thơ Tố Hữu 
2. Phỏng theo nộị dung nhân định  của Tổng BT Lê Duẩn thời kỳ sau giải phóng miền Nam
3.Trích lời Bác Hồ căn dặn các cháu thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp
4. Tổng BT Nguyễn Phú Trọng nói tại buôi tiếp xúc cử tri quận Ba Đình ngày 2/12/2012.

Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

Khi cán bộ thiếu phẩm chất, thừa quyền hành


Sự kiện cán bộ huyện Đức Phổ và tỉnh Quảng Ngãi trừng trị những người dân hành hương vĐền Hùng (được thuật lại trên nguyentuongthuyblog dưới đây) mới nghe thấy có v lạ lẫm...(!?) Nhưng tìm hiểu khơn tôi tin vụ việc đó là có thật, chỉ có những chi tiết cụ thể cần xác minh thêm. Về cách hành xử của cán bộ với người dân theo kiểu "chuyện bé xé ra to" như vậy khônđáng nghi ngờ trong bối cảnh trình độ cán bộ yếu kém do công tác đào tạo, tuyển dụng tràn lan và tệ nạn mua quan bán tước quá dẽ dàng suốt mấy chục năm nay rồi. Cũng không còn lạ lẫm gì tình trạng đã được xã hội thừa nhận: quan lại lộng hành, ức hiếp nhân dân, chỉ khác nhau  tùy theo địa phương và cấp đ. Với một địa bàn  xa trung ương và "nỗi tiếng" khắt khe với dân chúng như Quảng Ngãi thì vụ việc nêu trên lại càng dễ xảy ra. Điều llẫm hơn là tại sao một vụ việc chứa đầy uẩn khúc như thế vẫn tồn tại dai dẳng 12 năm nay? 

Riêng về khía cạnh giáo dục lịch sử, thì vụ việc nói trên gióng thêm một tiếng chuông cảnh báo về nguy cơ mất gốc nguồn cội dân tộc do nếp tư duy sai lệnh và cách "làm sử" lạc hậu kéo dài của các cơ quan chức năng. Thật không thể chấp nhận khi một dân tộc luôn tự hào với 5.000 năm lịch sử (từ  thời Kinh Dương Vương  2879 trước CN) nhưng 90 triệu thành viên mỗi người hiểu về nguồn cội một cách khác nhau , thậm chí trái ngược nhau: Người cho rằng "Việt Nam từ Trung Quốc mà ra", người khác quả quyết rằng người Việt là tiền bối của người Trung Quốc,v.v...thì chẳng lạ gì có ai đó nhận "nguồn gốc Chiêm Thành"!. Phải chăng vì sách sử của ta clặp lại những kiến thức rập khuôn mơ hồ nng vý nghĩa chính trị mà không tôn trọng sự thật lịch sử khách quan, né tránh nghiên cứu bàn thảo vể những chđđược cho là "nhậy cảm"...? Nếu sợ hãi là lý do thì quả là nực cười! Vì điều đáng sợ hơn là khi chính những người đại diện chính quyền không hiểu đúng v quá trình biến thiên của chủ quyền lãnh thổ quốc gia như thế nảo... Nếu hiểu rõ điều đó, chắc mấy ông quan Đức Phổ kia dù lộng quyền cũng đã không hành động quá lố bịch như vậy!

Nhìn rộng sang các lĩnh vực khác, các địa phương khác, từ trung ương xuống địa phương cũng đều thấy những vụ việc sai phạm trương tbắt nguồn từ sự yếu kém vtrình đvà đạo đức của một "bộ phận không nhỏ" trong đội ngũ cán bộ, chứ không ai khác.  Hãy xem cái cách mà các bộ/ngành, các tĩnh /thành, quận/huyện, phường/xã thực thi công vụ trong các lĩnh vực như quản lý đất đai, xây dựng, giao thông, ý tế, giáo dục v.v...ta sẽ thấy ngay rằng, tuy khác nhau về mức độ, h hoàn toàn giống nhau ở tình trạng kém năng lực, thiếu đạo đức, nhưng quá thừa quyền hành và thđoạn. Hậu quả là đương nhiên khi "bộ phận không nhỏ" này  trực tiếp điều hành các cơ quan công quyền, các công ty, dán ...? Đã xảy ra rồi đó những vụ thất thoát bạc nghìn tỷ mà công luận đu biết, và đang diễn ra đầy rẫy những vđồng lỏa, câu kết nhằm chiếm dụng đất đai, tài sản công... Và đđạt điều đó bọn họ không nề hà mọi thđoạn, kể cám hại những người dám lên tiếng tố giác.  Đó chính là mối đe dọa trực tiếp đối với người dân và là hiểm họa đối với dân tộc.


Phải chăng huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) có tư tưởng ly khai?

Nguyễn Tường Thụy
Một người đàn ông trước đây đã nhiều lần gọi điện cho tôi xưng là Đinh Hùng Chung ở huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) hẹn khi nào ra Hà Nội sẽ đến thăm tôi.
Lần này ông ra Hà Nội. Tôi nghe điện thoại, thấy giọng quen của những lần gọi điện trước. Tôi đồng ý tiếp ông ở nhà. Bây giờ, trước mặt tôi là người đàn ông mà tôi đoán chừng 65 – 70 tuổi.

Nói chuyện một lúc, thấy tôi cứ xưng bác/em, ông bảo bây giờ phải hỏi tuổi nhau để xưng hô cho đúng, sợ thất lễ. Tôi nói tuổi tôi, ông nói tuổi ông. Thì ra ông sinh năm 1961, tức là 51 tuổi. Tôi nhìn lại gương mặt khắc khổ của ông và mái tóc bạc trắng, kinh ngạc.Ông kể cho tôi nghe hoàn cảnh oan khuất của ông và gửi cho tôi một lá đơn kêu cứu dài tới 16 trang của ông – Đinh Hùng Chung, nguyên bộ đội ở đảo Lý Sơn và ông Nguyễn Đức Thông, nguyên bộ đội ở Lào. Trong 16 trang ấy có 11,5 trang là nội dung đơn, 4,5 trang là ý kiến và chữ ký xác nhận nội dung đơn của 9 nhân chứng.
Qua câu chuyện ông kể và qua lá đơn, tôi chú ý đến một câu chuyện mà tôi thấy giật mình. Ông kể dài, trong đơn kể cũng dài, tôi chỉ tóm tắt câu chuyện:
Năm 2000, ông Chung, ông Thông cùng 16 bà con khác thuê xe về dự giỗ Tổ Hùng Vương. Trước khi đi, các ông có làm đơn xin phép nhưng chính quyền ngăn cản không cho đi. Thuê xe thứ nhất thì công an huyện hù dọa đòi bắt xe, lái xe không dám chở. Xe thứ hai cũng thế. Đến xe thứ 3 thuê từ Quảng Ngãi vào, nhờ mọi người giữ được bí mật thì mới đi được. Mọi người treo lên xe băng rôn ” ĐỒNG BÀO ĐỨC PHỔ DỰ GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG NĂM 2000″ và được lái xe đồng tình. Khi chạy đi thu gom bà con thì cảnh sát giao thông Quang Ngãi chặn lại yêu cầu lột tấm băng rôn xuống. Mọi người không đồng ý. Do bà con đấu tranh mạnh nên cuối cùng họ cũng phải nhân nhượng. Sau khi đi về, hai ông và tất cả những ai đi chuyến hành hương về đất Tổ đó đều bị công an huyện mời lên mời xuống nhiều tháng không cho làm ăn gì cả. Khi các ông gặp ông Hoàng Quốc Vệ phó chủ tịch huyện hỏi, chúng tôi tội gì thì ông này nói:

Vua Hùng ở ngoài Bắc, không liên quan gì đến Đức Phổ. Đây là đất của Chiêm Thành (!?). Nhưng kẻ nào cho mình là con Rồng, cháu Tiên cần tiêu diệt.
Vì quá oan ức, các ông lên tỉnh xin can thiệp. Tỉnh ra công văn với nội dung là việc này thuộc chức năng của huyện và đưa cho các ông mang về huyện để giải quyết. Các ông mang về Thanh tra huyện, Công an huyện, rồi Tòa án huyện.

Ông kể tiếp: Đến Tòa án huyện Đức Phổ họ đã âm mưu sẵn. Trong khi làm việc, ông Phó chánh án huyện tự đập bể bảng chức danh của mình (bảng tên,chức vụ đặt ở bàn làm việc) và hô lên hai ông gây rối trật tự tại cơ quan Tòa án. Lập tức, Công an, Viện kiểm sát đến Tòa án bắt ông Chung và ông Thông giam.Tôi hỏi, thấy trong đơn ông nói bị đánh trong thời gian tạm giam, vậy cụ thể như thế nào. Ông Chung kể tại cơ quan CA Đức Phổ bị đánh 1 lần, còn tại trại giam Đức Phổ bị đánh 1 lần.
Sau đó hai ông bị đưa về trại giam của tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục bị hành hạ.

Trả lời tôi về thời gian tạm giam trước khi ra tòa, ông Chung nói, các ông bị giam 4 tháng tại trại giam Đức Phổ sau đó đưa ra trại giam Quảng Ngãi giam 4 tháng nữa rồi mới đưa ra tòa xét xử. Phiên Tòa sơ thẩm xử mỗi ông 3 năm tù giam. Phiên phúc thẩm y án. Các ông thi hành án ở trại Kim Sơn.
Ông cũng nói, quản giáo trại Kim Sơn (tên là Hùng) thấy tội trạng của các ông không có gì nên dễ dãi với các ông, ông rất biết ơn. Tôi lại hỏi về thời gian thi hành án thực tế như thế nào, ông Chung cho biết, ông được giảm 6 tháng, ông Thông được giảm 3 tháng bằng quyết định ân xá, lý do cải tạo tốt. Sau khi mãn hạn tù, về địa phương, các ông vẫn tiếp tục bị trù dập như trước.

Trở lại chuyện các ông đi dự giỗ tổ Hùng Vương về, các ông viết trong đơn:
Những người đi dự giỗ Tổ về bị công an Đức Phổ mời lên hành xuống làm cho kinh hoàng. Có người suy sụp tinh thần, có người chết như cô Hiền, anh Bưng, anh Nguyên. Mẹ của hai ông cũng bị suy sụp tinh thần lâm bệnh chết (mẹ ông Chung chết 2008, mẹ ông Thông chết năm 2007).Theo đơn trình bày thì cán bộ ở huyện Đức Phổ có những lời nói rất lạ, tới mức khó tin như:

Ông Nguyễn Đức Tâm, chủ tịch Quảng Ngãi nói: Giỏi đấy, tụi nó gọi con Rồng, cháu Tiên, tôi sẽ lệnh cho chính quyền huyện Đức Phổ bắt nhốt vô, trảy sạch.


Ông Cao Văn Lệ, bí thư Đức Phổ: Tụi nó không chấp hành cái lệnh của chính quyền Đức Phổ. Thằng nào đi dự lễ về, tao sẽ cho nó tan nhà nát cửa.


Ông Tạ Mỹ Ba, chủ tịch huyên Đức Phổ: Vua Hùng ở miền Bắc chứ đâu ở đây. Tụi nó mà phá lệnh của chính quyền tao cho chúng nó ở tù rục xương. Nói trực tiếp với ông Trung khi gặp tại huyện.


Ông Lê Trung Thu, trưởng công an Đức Phổ: Nếu các anh ngoan cố đi dự giỗ Tổ, ra khỏi Đức Phổ thì công an giao thông Quảng Ngãi sẽ bắt …


Ông Thọ, cảnh sát giao thông Đức Phổ: Chủ trương địa phương đề ra việc gì thì các anh chấp hành. Nếu theo chủ trương thờ Vua Hùng, thì các anh đã phản lại chủ trương của địa phương, tôi sẽ cho các anh chết.


Ông Huỳnh Quang Minh trưởng công an huyện Đức Phổ: luật pháp chính từ miệng tao, chủ trương cũng chính từ miệng tao. Nếu ngoan có dự giỗ Tổ về tới nhà chưa kịp rửa chân, tao sẽ cho tụi bay rục xương.


Ông Huỳnh Ngọc Trí, Viện trưởng Viện kiểm sát huyện Đức Phổ: Anh em cán bộ huyện Đức Phổ yên trí. Tụi con Rồng, cháu Tiên nó đi dự giỗ Tổ về là hết số.Tôi là Viện kiểm sát, tôi sẽ cho tụi nó tiêu đời.


Ông Huỳnh Kính, chánh tòa Đức Phổ: Tôi đang cầm cái máy chém mà anh Chung … Tụi anh mà còn theo Vua Hùng, tôi sẽ cho tụi anh mút chỉ.


Ông Huỳnh Ngọc Kháng, phó tòa Đức Phổ: Anh tưởng anh đi dự giỗ Tổ Hùng Vương là ngon lắm hay sao. Nếu anh ngoan cố chống lại chủ trương của huyện thì tôi là người đưa anh vào rọ cho anh hết đời.


Những người ở các vị trí trên đây đều vào thời kỳ các ông đi dự Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000. Nay các vị trí đó đã có những thay đổi. Trong chuyện này, tôi đã lược bớt cho gọn và từ ngữ cũng nhẹ nhàng hơn. Trong đơn còn nhiều chi tiết khác với những tiếng kêu thảm thiết. Ngoài ra, nội dung đơn và lời kể của các ông còn đề cập đến những chuyện khác nữa.


Nếu đây là sự thật thì là một điều kinh hoàng. Nhưng các ông là người có địa chỉ cụ thể, các ông biết nếu nói sai thì trách nhiệm của mình ra sao. Ngoài ra, lá đơn có 9 nhân chứng xác nhận, trước khi ký xác nhận, những người làm chứng đều có nhận xét và xác nhận nội dung lá đơn. Chẳng lẽ các ông bịa ra để rồi 12 năm nay theo kiện cho tốn tiền và công sức? Bạn đọc tin đến đâu thì tùy suy nghĩ của mỗi người và có thể liên hệ với hai ông cùng ký đơn: Đinh Hùng Chung: số máy 01268370906, ông Nguyễn Đức Thông: 0163405946. Tôi đã liên hệ với ông Thông theo số máy trên. Ngoài ra tôi cũng đã liên hệ với bà Phạm Thị Kim Chi số máy 01677910091 là một trong 9 người ký tên làm chứng. Cả hai đều xác nhận nội dung lá đơn và kể cho tôi nghe thêm những chuyện xung quanh lá đơn trên.


Tại sao huyện Đức Phổ lại có chủ trương cấm dân đi dự Giỗ tổ Hùng Vương và đe dọa trắng trợn như vậy? Trong đơn, các ông có dẫn ra lời của ông Tâm, chủ tịch Quảng Ngãi, vậy ngoài Đức Phổ ra thì các huyện khác có cấm đoán dân như ở Đức Phổ không? Nếu có chủ trương này, thì nó được thực thi ở Đức Phổ hay cả tỉnh Quảng Ngãi? Được biết, trong suốt 12 năm qua, các ông đã khiếu kiện nhiều nơi, gửi đơn đến nhiều tòa soạn báo. Hiện trong tay tôi có trong tay bản foto công văn của UBND huyện Đức Phổ gửi báo Nhân dân và báo Công an nhân dân giải thích về đơn của các ông, bản foto bài viết trong mục “Hồi âm bài báo” của báo Tiền phong số ra ngày 1/9/2000.
Tất nhiên, công văn và bài báo nói trên đều bác bỏ nội dung mà các ông trình bày trong đơn. Vậy thêm một câu hỏi đặt ra: Tại sao các ông bịa đặt mà chính quyền hay các cơ quan chức năng ở Đức Phổ lại để yên cho các ông? Sao các ông vu khống chính quyền dễ dàng như vậy? Trong khi đó, tôi hỏi đi hỏi lại, các ông đều khẳng định những điều trình bày trong đơn là đúng sự thật. Ông Thông, khi trả lời tôi qua điện thoại, khẳng định: nếu tôi nói sai thì tôi chấp nhận đi tù. Ông Chung cho rằng, chính việc đi dự giỗ Tổ Hùng Vương là nguyên nhân dẫn đến ông và ông Thông vào tù với tội “gây rối trật tự”.

Đây là lần đầu tôi biết đến chuyện như thế này. Không biết ngoài việc cấm đoán, gây khó dễ với những người đi dự giỗ Tổ như thế thì chính quyền huyện Đức Phổ đã tuyên truyền cho dân đến đâu về việc không được xưng là con Rồng, cháu Tiên, rằng Vua Hùng không liên quan gì đến dân huyện Đức Phổ, rằng Đức Phổ là đất Chiêm Thành. Liệu ở Đức Phổ có tư tưởng ly khai?
Thiết nghĩ TW Đảng và Nhà nước cần điều tra cặn kẽ làm sáng tỏ chuyện này. Nếu đơn của các ông phản ánh đúng sự thật thì đây là sự việc tày đình. Cùng với việc giải oan cho hai ông, cần xử lý nghiêm khắc, kể cả đưa ra Tòa việc cấm đoán nhân dân hướng về cội nguồn, tổ tiên, tìm hiểu cặn kẽ nguồn gốc vấn đề, không thể xuê xoa, cho qua. Còn nếu ông Thông và ông Chung cùng với 9 người làm chứng viết sai sự thật, xác nhận sai sự thật thì cũng cần xử lý theo qui định của pháp luật./.
 

Tìm kiếm Blog này